Một số vấn đề cần hoàn thiện về thể chế trong quản lý số

Nguyễn Thị Thanh Hoa
Phân viện Học viện Hành chính Quốc gia tại TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang làm thay đổi phương thức quản trị xã hội, đặt ra nhiều cơ hội, thách thức trong quản trị nhà nước. Để bắt kịp xu hướng phát triển trong kỷ nguyên số, các quốc gia trên thế giới cần có các chính sách kịp thời để chuyển đổi phương thức quản trị nhà nước trên cơ sở tận dụng hiệu quả những thành quả của cuộc cách mạng công nghệ 4.0; chuyển đổi phương thức quản lý truyền thống sang phương thức quản lý số dựa trên nền tảng số trong huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của người dân.
Tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 đang làm thay đổi phương thức quản trị xã hội.
Tổng quan về thể chế quản lý số

Cuộc cách mạng 4.0 đã và đang đặt ra nhiều cơ hội, thách thức trong quản trị nhà nước của mỗi quốc gia, đòi hỏi các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển, phương thức quản trị, đặc biệt là điều chỉnh thể chế, chính sách để bắt kịp những chuyển đổi nhanh chóng của xã hội đáp ứng yêu cầu quản trị nhà nước trong bối cảnh mới. Điều chỉnh thể chế, chính sách được xem là một nhiệm vụ quan trọng, ưu tiên trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hoá gắn với chuyển đổi số mọi mặt đời sống xã hội.

Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF): Thể chế có thể được hiểu là cái tạo thành khung khổ trật tự cho các quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên tham gia tương tác; là ý chí chung của cộng đồng xã hội trong việc xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung được mọi người chia sẻ. Tại Việt Nam, thể chế được hiểu là những nguyên tắc xác định mối quan hệ xã hội; định hình cách thức ứng xử của các thành viên trong xã hội và điều chỉnh sự vận hành xã hội. Nội hàm của thể chế gồm 3 yếu tố chính: hệ thống pháp luật, các quy tắc; các chủ thể thực hiện và quản lý sự vận hành xã hội; cơ chế, phương pháp, thủ tục thực hiện hoạt động xã hội, quản lý và điều hành sự vận hành xã hội. Thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hành lang pháp lý cơ bản để vận hành hiệu quả các hoạt động xã hội.

“Quản lý số” là thuật ngữ mới được đề cập trong bối cảnh chuyển đổi số nên vẫn còn nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về quản lý số. Theo Từ điển tiếng Việt, “quản lý” là tổ chức và điều khiển hoạt động theo các yêu cầu nhất định. Có thể hiểu, quản lý là tổ chức thực hiện, xử lý những vấn đề cụ thể; quản lý là sử dụng quyền uy mà chức trách tạo nên cũng như cơ cấu tổ chức và các luật lệ, quy định để điều hành thuộc cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức nhằm hoàn thành mục tiêu. Có thể hiểu chung nhất về quản lý là hoạt động tất yếu bảo đảm cho tổ chức đạt được mục tiêu của mình một cách có hiệu quả thông qua bốn chức năng căn bản là hoạch định, tổ chức, lãnh đạo – điều hành và kiểm soát. Trên cơ sở cách tiếp cận quản lý, có thể hiểu quản lý số là hoạt động tổ chức, điều hành bảo đảm cho tổ chức hoặc bộ máy đạt được mục tiêu một cách hiệu quả dựa trên nền tảng số với mục tiêu lấy dữ liệu làm trọng tâm, đây được coi là một trong giải pháp căn bản trong việc thúc đẩy chuyển đổi số và nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước trong bối cảnh bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay.

Thể chế quản lý số được hiểu một cách đơn giản là việc xây dựng các nguyên tắc xác định mối quan hệ xã hội, định hình cách thức tổ chức, vận hành các hoạt động xã hội trên nền tảng không gian số nhờ ứng dụng công nghệ số trong quản lý, điều phối các nguồn lực xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của người dân. Thể chế quản lý số đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy các hoạt động chuyển đổi số hiện nay, tạo khung hành lang pháp lý để điều chỉnh hành vi ứng xử của công dân và định hình các quan hệ xã hội trên môi trường số. Việc xây dựng thể chế quản lý số sẽ tạo ra một khung khổ trật tự trong việc thiết lập mối quan hệ của con người, định vị cơ chế thực thi và giới hạn của các quan hệ giữa các bên trong xã hội số, bảo đảm xác lập trật tự, những quy tắc, những ràng buộc và các chuẩn mực, giá trị chung của công dân số trong không gian số.

Thực trạng về xây dựng thể chế quản lý số ở Việt Nam

Trong Chiến lược chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam xác định 5 yếu tố nền tảng là: thể chế, hạ tầng, an ninh mạng, nền tảng công nghệ và đào tạo, trong đó nhấn mạnh thể chế là yếu tố đặt lên hàng đầu. Để thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số, Việt Nam đã tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý trên môi trường số tạo hành lang pháp lý quan trọng để triển khai các nhiệm vụ chuyển đổi số quốc gia, cụ thể như: Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng tại kỳ họp thứ 5, ngày 12/6/2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019 là yêu cầu cấp bách để bảo đảm một môi trường an toàn trước các hiểm hoạ thường trực trên không gian mạng; Luật Giao dịch điện tử được thông qua ngày 22/6/2023 tại kỳ họp thứ 5, (khoá XV). Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó xác định: Phấn đấu đến năm 2030 Việt Nam hoàn thành xây dựng chính phủ số, kinh tế số đạt khoảng 30% GDP và đứng trong nhóm 50 quốc gia đứng đầu thế giới, xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN về Chính phủ điện tử và phát triển kinh tế số.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020, trong đó đề ra 6 nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số, gồm: chuyển đổi nhận thức, kiến tạo thể chế; phát triển hạ tầng số; phát triển nền tảng số; tạo lập niềm tin, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; hợp tác quốc tế, nghiên cứu, phát triển và đổi mới sáng tạo trong môi trường số. Ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050”, trong đó, xác định tăng trưởng xanh thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài. Tăng trưởng xanh dựa vào thể chế và quản trị hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, tăng trưởng xanh định hướng đầu tư vào công nghệ tiên tiến, chuyển đổi số, kết cấu hạ tầng thông minh và bền vững. Ngoài ra, để có cơ sở pháp lý triển khai công dân số, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030; đến nay đã có 32,6 triệu hồ sơ cấp định danh điện tử được thu nhận, trên 29 triệu hồ sơ được phê duyệt (số liệu tính đến ngày 04/6/2023).

Chuyển đổi số đang tạo ra những sự thay đổi chưa từng có trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa -xã hội, dịch vụ… của đất nước từ đó làm thay đổi quá trình quản trị xã hội, quản trị nhà nước; có sự chuyển dịch từ phương thức quản lý truyền thống sang phương thức quản lý số. Hành trình chuyển đổi số để xây dựng nền kinh tế số, xã hội số mới đang ở giai đoạn khởi động cho một chặng đường dài với nhiều thách thức. Nhiều địa phương có quá trình chuyển đổi số tương đối nhanh, đạt được nhiều kết quả tích cực, như: TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương là những địa phương đi đầu trong thực hiện chuyển đổi số quốc gia và chuyển đổi phương thức quản lý xã hội, quản lý nhà nước dựa trên nền tảng số.

Một trong những bước đệm để dẫn tới yếu tố thành công trong quá trình thực hiện chuyển đổi số của TP. Hồ Chí Minh chính là chú trọng vào cải cách thể chế, tập trung vào hạ tầng số, thúc đẩy hoạt động chính quyền số và phát triển kinh tế số. Cụ thể, Thành phố đã triển khai thiết lập quy trình xử lý các thủ tục hành chính, văn bản của tất cả cơ quan Nhà nước bao gồm các sở, ban, ngành, thành phố Thủ Đức, quận, huyện, phường, xã, thị trấn trên môi trường số, đưa vào vận hành 1.542 dịch vụ công trực tuyến, đạt tỷ lệ 97,7% trên tổng số thủ tục hành chính. Đến tháng 7/2023, có 400 dịch vụ công đã được rà soát, tái cấu trúc quy trình và được chủ tịch UBND Thành phố công bố đạt dịch vụ công trực tuyến trên mức toàn trình. Việc đơn giản hóa quy trình đem lại hiệu quả tích cực trong quá trình giải quyết hồ sơ, đơn giản hóa giấy tờ và thủ tục cho người dân. Thành phố cũng đã đưa vào vận hành nền tảng số hệ thốn thông tin giải quyết thủ tục hành chính trên cơ sở hợp nhất hơn 40 phần mềm một cửa điện tử của các quận, huyện, sở, ban, ngành.

Từ góc nhìn thực tiễn của TP. Hồ Chí Minh, kinh nghiệm trong quá trình thực thi thể chế quản lý số hiện nay như: (1) Đầu tư xây dựng hạ tầng công nghệ số. TP. Hồ Chí Minh đã tập trung đầu tư vào hệ thống mạng lưới internet băng thông rộng tốc độ cao phủ rộng đến hầu hết các quận, huyện, phường, xã, đảm bảo không có vùng lõm sóng. Điều này đã tạo điều kiện để triển khai các dịch vụ một cách hiệu quả. (2) Có sự hợp tác giữa nguồn lực công – tư và phát triển nguồn nhân lực trong chuyển đổi số. Thành phố đã ban hành các quy định, chính sách, chương trình đào tạo nhằm nâng cao năng lực quản lý của các cấp chính quyền trong quá trình thực hiện chuyển đổi số, đặc biệt chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin và kỹ thuật cao, thu hút các chuyên gia, nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo để thúc đẩy chuyển đổi số. Bên cạnh đó, xây dựng nhiều giải pháp khuyến khích doanh nghiệp, các tổ chức xã hội cùng với người dân tích cực đầu tư, phối hợp tham gia trong quá trình chuyển đổi số, cung cấp các dịch vụ số thiết yếu. (3) Có sự thống nhất đồng lòng của cả hệ thống chính trị Thành phố, đặc biệt vai trò người đứng đầu của các sở, ban, ngành, Thành phố, quận, huyện, xã, phường được phát huy mạnh mẽ, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức học tập, bồi dưỡng, trau dồi khả năng nghiệp vụ chuyên môn trong tiến trình chuyển đổi số hiện nay. Hơn nữa, không ngừng đốc thúc, cải tiến quy trình làm việc tại các cơ quan để phù hợp với các tiêu chí chính quyền đô thị thông minh. (4) Việc phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số ảnh hưởng đến sự an toàn của không gian mạng, tuy nhiên Thành phố thực hiện nghiêm chính sách an toàn thông tin và bảo mật thông tin cá nhân, ban hành nhiều giải pháp phòng, chống tội phạm công nghệ cao. Điều này tạo uy tín cho hệ thống các dịch vụ công do chính quyền Thành phố cung cấp.

Một ví dụ điển hình khác trong quá trình chuyển đổi số hiện nay ở nước ta chính là Bình Dương. Với khao khát xây dựng chính quyền đô thị thông minh, phát triển bứt phá kinh tế, văn hóa – xã hội, dịch vụ, Bình Dương đã liên tiếp gặt hái nhiều thành tựu quan trọng trong tiến trình chuyển đổi số hiện nay. Cơ sở hạ tầng công nghệ phục vụ công tác chuyển đổi số tại Bình Dương được đầu tư hoàn thiện, hiện đại, mang tính ứng dụng, hiệu quả cao. Hệ thống phần mềm quản lý văn bản và điều hành công việc và chữ ký số đã được triển khai liên thông bốn cấp, với 279 cơ quan sử dụng. Hầu hết các văn bản ban hành qua phần mềm quản lý văn bản đều sử dụng chữ ký số của cơ quan hoặc cá nhân. Hệ thống thư công vụ được quản lý, vận hành hoạt động ổn định với 8.151 hộp thư điện tử đã được cấp. Hệ thống Cổng dịch vụ công và Một cửa điện tử tại Bình Dương đang tiếp tục được nâng cấp với các tính năng mới, phục vụ nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Ngoài ra, tỉnh đã xây dựng thí điểm các phần mềm dịch vụ công, thí điểm nền tảng phân tích dự báo, thí điểm nền tảng AI về nhận dạng khuôn mặt, đám đông và các vi phạm giao thông. Hệ thống chính quyền tỉnh Bình Dương đã không ngừng nỗ lực đầu tư kinh phí hoạt động của hành trình chuyển đổi số, ban hành nhiều chính sách, chương trình khuyến khích người dân, doanh nghiệp cùng tham gia đạt hiệu quả cao.

Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được thì ở phương diện chung vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế trong quá trình chuyển đổi số tại Bình Dương như: (1) Hệ thống thể chế quản lý số còn hạn chế; chưa có văn bản hướng dẫn, quy định rõ ràng trong công tác triển khai chuyển đổi số tại tỉnh, còn nhập nhằng trách nhiệm, chưa có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các sở, ban, ngành tại tỉnh. Điều này gây trở ngại cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực hiện chuyển đổi số. (2) Nguồn nhân lực phục vụ công tác chuyển đổi số còn thiếu hụt, trình độ chuyên môn về lĩnh vực công nghệ thông tin, kỹ thuật cao của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn hạn chế, chưa được trải qua nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trong lĩnh vực công nghệ thông tin. (3) Chính quyền tỉnh chưa xây dựng được kế hoạch, chiến lược, mô hình chuyển đổi số cụ thể phù hợp cho mọi doanh nghiệp, tổ chức trên địa bàn tỉnh. Chuyển đổi số là một cuộc cách mạng về tư duy, khoa học đòi hỏi các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước đóng trên địa bàn tỉnh chủ động, sáng tạo nhưng phải dựa trên khuôn khổ pháp luật.

Thời gian qua, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý số tạo hành lang pháp lý để phát triển chính phủ điện tử hướng tới xây dựng chính phủ số, kinh tế số và xã hội số được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và đã có những bước phát triển nhất định. Hệ thống thể chế quản lý số được xây dựng đã tạo nền tảng bước đầu để thực hiện các nhiệm vụ chuyển đổi số, tuy nhiên, xây dựng thể chế quản lý số còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đặt ra.

Một là, việc nắm bắt đầy đủ, chính xác các mối quan hệ xã hội mới phát sinh, cần nhu cầu điều chỉnh của pháp luật, các mối quan hệ xã hội trong môi trường số, các mối quan hệ mới trong thế giới ảo là vô cùng đa dạng, khó đoán định gây khó khăn trong công tác quản lý.

Hai là, chưa có quy định rõ ràng, đồng bộ về kết nối, chia sẻ dữ liệu trong hoạt động của cơ quan nhà nước; thiếu sự đồng bộ trong quy định cụ thể về công tác văn thư, lưu trữ điện tử, những giá trị pháp lý của văn bản điện tử và quy định việc sử dụng các văn bản điện tử trong giao dịch hành chính, thanh toán, các chính sách ưu đãi thúc đẩy phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ cuộc các mạng công nghiệp 4.0 vào xây dựng chính phủ số.

Ba là, yêu cầu cải cách hệ thống thể chế quản trị nhà nước trên tất cả lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…, tập trung vào các quy định pháp luật, cơ chế vận hành, nguyên tắc quản lý số, các lĩnh vực trên nền tảng không gian số, môi trường ảo; bảo đảm công bằng, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quản trị môi trường ảo, tội phạm công nghệ cao, đại diện, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, sở hữu trí tuệ, quản trị doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thương mại điện tử, tài sản ảo, an sinh xã hội, nghề nghiệp.

Bốn là, việc xây dựng hệ thống thể chế quản lý số phải xuất phát từ các yếu tố cơ bản của pháp luật về không gian, các hành vi và phương tiện pháp luật, cơ sở và nội dung pháp luật. Tuy nhiên, các tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ sẽ tạo ra nhiều thách thức mới như trí tuệ nhân tạo, tự động hoá, robot thông minh, vì thế phạm vi, đối tượng điều chỉnh của các quan hệ pháp luật sẽ vượt ra khỏi phạm vi không gian lãnh thổ quốc gia; bên cạnh đó, các hành vi pháp lý mới sẽ phát sinh như giao dịch tài sản ảo, hành vi phá hoại máy chủ theo virut, mua và bán lại lỗ hổng bảo mật… đòi hỏi khi xây dựng thể chế quản lý số phải tính đến các yếu tố này.

Hoàn thiện thể chế quản lý số trong bối cảnh hiện nay

Để triển khai có hiệu quả nhiệm vụ chuyển đổi số, xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý số là yêu cầu cấp thiết, tạo khung khổ trật tự trong tổ chức, điều hành các hoạt động xã hội trên nền tảng số, vì thế, thời gian tới, các cấp, các ngành cần tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, quản lý số dựa trên nền tảng số với mục tiêu lấy dữ liệu làm trọng tâm, vì thế trước hết là đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, thu thập và quản lý hệ thống dữ liệu đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý liên thông dữ liệu một cách đồng bộ, nhanh chóng. Nghiên cứu phát triển hệ thống hạ tầng số quốc gia đồng bộ, rộng khắp với hệ thống thông tin đa chiều đảm bảo khai thác, sử dụng phục vụ công tác tổ chức, điều hành, quản trị trên không gian số.

Thứ hai, rà soát, nắm bắt một cách đầy đủ, chính xác toàn bộ các mối quan hệ xã hội mới phát sinh trong môi trường số; tập trung nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật, thiết lập cơ chế vận hành và xác định những nguyên tắc quản lý cơ bản đối với các mối quan hệ mới phát sinh trong môi trường số, các mối quan hệ mới trong thế giới ảo để kịp thời điều chỉnh bảo đảm đúng định hướng phát triển của quốc gia trong kỷ nguyên số.

Thứ ba, hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ về xây dựng chính phủ điện tử; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý, kết nối, chia sẻ dữ liệu, về định danh và xác thực điện tử; về bảo vệ dữ liệu cá nhân, văn bản hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp lý phát triển chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ: AI, blockchain, IoT, Bigdata; quy định về công tác văn thư lưu trữ tài liệu điện tử, thủ tục hành chính trên môi trường điện tử… và hướng dẫn cụ thể việc triển khai Luật An ninh mạng; nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Giao dịch điện tử,…

Thứ tư, xây dựng nền tảng, hoàn thiện thể chế cho các hình thức mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số; cải cách thể chế quản trị nhà nước trên tất cả lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy định pháp luật về công nghệ thông tin và truyền thông; xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Thứ năm, nghiên cứu, đề xuất hướng hoàn thiện khung pháp lý đối với vấn đề quản lý tiền ảo, tài sản ảo; quản lý các sản phẩm trí tuệ nhân tạo, tự động hoá, robot thông minh; nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chế tài quản lý các hành vi pháp lý mới sẽ phát sinh như giao dịch tài sản ảo, hành vi phá hoại máy chủ theo virut, mua và bán lại lỗ hổng bảo mật…

Tài liệu tham khảo:
1. Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu các năm 2009, 2010.
2. Phạm Duy Nghĩa. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Khoa Luật, Đại học kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
3. Hồ Hồng Hải. Thể chế, yếu tố nền tảng trong chuyển đổi số quốc gia. https://cspl.mic.gov.vn, ngày 09/10/2020.
4. Đặng Minh Châu. Một số rào cản trong xây dựng chính phủ số ở Việt Nam hiện nay. http://lyluanchinhtri.vn, ngày 23/3/2021.
5. Lê Thị Tầm, Hồ Thị Nguyệt. Chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp. https://tapchicongthuong.vn, ngày 08/01/2023.