Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa

TS. Nguyễn Văn Thủy
NCS. Trần Mạnh Quân
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Ngày nay, vấn đề văn hóa và bảo vệ văn hóa là mối quan tâm của nhiều quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đang mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế; đây là cơ hội lớn để chúng ta phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc; đồng thời, học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đưa nước ta phấn đấu đạt mục tiêu tăng trưởng. Thực tế đó, Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách và hệ thống giải pháp phù hợp nhằm quản lý văn hóa có hiệu quả, góp phần tạo sức mạnh tinh thần, nền tảng nội sinh cho sự phát triển bền vững đất nước.
Ảnh: vneconomy.vn.
Đặt vấn đề

Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề vừa có ý nghĩa cấp thiết, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nhận thức được chức năng, vai trò của văn hóa, đánh giá được thực trạng hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) về văn hóa nhằm tìm ra những phương hướng, giải pháp hữu hiệu nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN về văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay.

Một số vấn đề lý luận

Văn hóa là một dạng hoạt động xã hội quan trọng, tất yếu phải có sự quản lý. Chính vì thế quản lý văn hóa là tất yếu khách quan, mang tính đặc thù riêng. Hoạt động văn hóa là một hoạt động sáng tạo, tạo ra các sản phẩm văn hóa mang giá trị lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm, phong phú hơn cho cuộc sống, con người; đó còn là hoạt động tư tưởng, có khả năng gây “hiệu ứng” (tốt hoặc xấu) trong xã hội; vừa là động lực, vừa là nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế chung của xã hội; là sức mạnh mềm tạo ra giá trị vật chất, tinh thần to lớn cho xã hội.

QLNN về văn hóa là một bộ phận trong công tác QLNN đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, do những đặc thù của văn hóa, QLNN cũng có nhiều điểm riêng.

QLNN về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy nhằm phát triển văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa và liên quan. Trong đó, chủ thể QLNN về văn hóa là Nhà nước, được tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương, quyền quản lý được phân cấp; khách thể QLNN về văn hóa là văn hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hóa.

Theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành Văn hóa quản lý. Văn hóa giáo dục, khoa học – công nghệ… do cơ quan giáo dục, khoa học – công nghệ quản lý. Mục đích QLNN về văn hóa là giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Cơ sở pháp lý của QLNN về văn hóa là Hiến pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy QLNN nói chung và QLNN về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp quy. Quản lý bằng pháp luật chứ không phải bằng ý chí của nhà quản lý. Cách thức quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích chứ không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà quản lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ, tùy tiện của nhà quản lý. Hoạt động QLNN về văn hóa bao gồm: (1) QLNN đối với văn hóa – nghệ thuật; (2) QLNN đối với văn hóa – xã hội; (3) QLNN đối với di sản văn hóa.

Thực trạng công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở Việt Nam hiện nay

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, chỉ đạo, điều hành của Nhà nước cùng với sự tích cực tham gia của toàn dân, các hoạt động văn hóa và QLNN về văn hóa đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Văn hóa đã và đang thực sự thể hiện rõ nét là sức mạnh tinh thần, là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.

Các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa ở nước ta đã và đang được thể chế hóa, cụ thể hóa và hoàn thiện để phù hợp với thực tiễn. Trong lĩnh vực văn hóa, hiện nay nước ta có 5 luật, 50 nghị định, 14 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và trên 100 thông tư, thông tư liên tịch được điều chỉnh trực tiếp1…  Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý ngành Văn hóa ngày càng được kiện toàn và củng cố, từng bước nâng cao năng lực quản lý, đổi mới phương thức quản lý, thúc đẩy sự phát triển và hạn chế những tiêu cực trong đời sống văn hóa, văn nghệ. Trong đó, Chính phủ đã triển khai quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, xây dựng và bố trí cán bộ vào đúng vị trí việc làm; ban hành một số đề án đào tạo, bồi dưỡng tài năng và nguồn nhân lực văn hóa, nghệ thuật, thể thao đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, như: Đề án “Xây dựng đội ngũ trí thức ngành văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030”; Đề án “Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo các trường văn hóa, nghệ thuật”; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên trình độ cao trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật giai đoạn 2010 – 2020”; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển tài năng trẻ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật”; Đề án “Tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng tài năng thể thao và nhân lực thể thao thành tích cao đến năm 2035”; Đề án “Đào tạo tài năng văn hóa – nghệ thuật giai đoạn 2016 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030”; Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng nhân lực văn hóa – nghệ thuật ở nước ngoài đến năm 2030”2.

Nguồn vốn của Nhà nước được sử dụng có hiệu quả, tăng cường cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa, nhất là ở nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; chống sự xuống cấp của các di tích lịch sử văn hóa, quan tâm bảo tồn một số di sản văn hóa phi vật thể truyền thống có nguy cơ mai một, từng bước phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa. Các hoạt động xã hội hóa trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ tạo thêm không gian, điều kiện, nguồn lực, nhân lực để phát triển văn hóa. Một số tổ chức, cá nhân bước đầu mạnh dạn đầu tư vào một số ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản; đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa ngày càng tăng cường, góp phần tạo môi trường văn hóa lành mạnh. Hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng cùng với quá trình đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, hoạt động giao lưu các đoàn biểu diễn nghệ thuật và trao đổi sách, báo, phim ảnh, triển lãm, nghiên cứu, đào tạo… giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới ngày càng được đẩy mạnh.

Tuy nhiên, hiệu lực, hiệu quả QLNN về văn hóa chưa tương xứng với yêu cầu ngày càng cao. Việc thể chế hóa quan điểm, chủ trương nêu trong Nghị quyết còn chậm, chưa theo kịp thực tiễn xây dựng văn hóa, phát triển con người. Một số đề án, chương trình thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới; Nghị quyết số 33- NQ/TW ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, sau nhiều năm triển khai vẫn còn dang dở, thậm chí có đề án bị rút bỏ.

Một số đơn vị vừa thực hiện chức năng của mình, vừa trực tiếp triển khai các hoạt động mang tính chất sự nghiệp, dẫn đến tình trạng chồng chéo trong quản lý. Cũng có thời điểm các cơ quan nhà nước có biểu hiện sao nhãng, buông lỏng đối với hoạt động quản lý thị trường sản phẩm văn hóa, công nghiệp văn hóa, quản lý internet, mạng xã hội, văn hóa giới trẻ, văn hóa tâm linh, xã hội hóa văn hóa…

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa

Đại hội XIII của Đảng với điểm nhấn, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa là “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”3. Đây không chỉ là mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa mà còn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược để phát triển nhanh, bền vững đất nước trong những năm tiếp theo. Mục tiêu, nhiệm vụ này đặt ra đặt ra yêu cầu phải nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác QLNN về văn hóa. Do đó, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và hệ thống pháp luật quản lý văn hóa.

Hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật một cách toàn diện, đồng bộ trên mọi lĩnh vực của đường lối văn hóa, phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; bổ sung, điều chỉnh những chính sách đã ban hành cho phù hợp thực tiễn phát triển, tính đặc thù của văn hóa với những cam kết quốc tế; bãi bỏ những cơ chế, chính sách không còn phù hợp trong điều kiện mới. Trong đó, cần tập trung điều chỉnh, hướng dẫn một số hoạt động như: nghệ thuật biểu diễn; điện ảnh; mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm; thư viện; di sản văn hóa; văn hóa cơ sở, văn hóa quần chúng, tuyên truyền cổ động; quyền tác giả, quyền liên quan đến tác phẩm văn học – nghệ thuật; giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa; QLNN, sử dụng các dịch vụ công về văn hóa; QLNN đối với hoạt động của các hội, các tổ chức phi chính phủ trong lĩnh vực văn hóa. Tập trung đẩy mạnh cải cách thể chế văn hóa mạnh mẽ và khoa học nhằm giải phóng sức sản xuất văn hóa và tạo động lực cho sự phát triển văn hóa; xây dựng các chính sách văn hóa đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Nhà nước cần chú ý hết sức hạn chế việc can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính mà tập trung sử dụng những công cụ pháp luật và các cơ chế, chính sách để ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, khuyến khích các hoạt động tích cực trong công tác quản lý văn hóa.

Hai là, hoàn thiện bộ máy và cán bộ, công chức, viên chức làm công tác QLNN về văn hóa.

Kịp thời kiện toàn bộ máy QLNN về văn hoá theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong công tác quản lý văn hóa từ trung ương tới địa phương. Tăng cường phân cấp cho cơ sở trong quản lý, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân phát huy năng lực và ý thức được trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp phát triển văn hóa. Rà soát, quy hoạch lại cơ cấu cơ quan quản lý văn hóa các cấp,tránh chồng chéo trong phạm vi, lĩnh vực. Đẩy mạnh phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương quy rõ trách nhiệm, giới hạn quản lý cho phù hợp điều kiện thực tiễn. Bên cạnh đó, các cấp cần thực hiện tốt công tác “chuẩn hóa” cán bộ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ trong hàng ngũ lãnh đạo, quản lý, tham mưu, cũng như công chức, viên chức ngành Văn hóa. Trong đó, chú trọng xây dựng tiểu chuẩn, cơ chế lựa chọn cán bộ thực sự phù hợp; quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia đầu ngành cả về phẩm chất, năng lực; có kế hoạch đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ theo lĩnh vực và sở trường, thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, có chế độ đãi ngộ cán bộ phù hợp.

Ba là, tăng cường đầu tư nguồn lực cho văn hóa và xây dựng mạng lưới thiết chế văn hóa.

Nguồn lực đầu tư cho văn hóa được triển khai theo hai hướng: tạo nguồn đầu tư từ phía Nhà nước, từ các tổ chức kinh tế – xã hội và tư nhân. Đồng thời, văn hóa cũng là lĩnh vực làm ra lợi nhuận, vì thế nguồn đầu tư cho văn hóa cũng chính từ bản thân văn hóa. Trong chính sách đầu tư, phải xác định: “Nhà nước đầu tư ngân sách cho văn hóa” không đồng nghĩa với quan niệm “Nhà nước đầu tư cho bộ, ngành mang tên văn hóa”. Trong quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần phải xây dựng những thiết chế văn hóa phù hợp để tổ chức các hoạt động văn hóa, hướng tới đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của đông đảo nhân dân.

Bốn là, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động quản lý văn hóa.

Xã hội hóa được thực hiện với phương thức Nhà nước và Nhân dân cùng làm. Đó là việc đề cao trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, các ngành, đoàn thể, huy động các nguồn lực trong Nhân dân và sự tham gia của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội vào quản lý và phát triển văn hóa. Do đó, cần thực hiện phương châm “lấy quần chúng giáo dục quần chúng”, thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, phát huy tính tự quản của cộng đồng dân cư, của mỗi cơ quan, đơn vị học tập, công tác, sản xuất, kinh doanh trong việc tuyên truyền, giám sát, kiểm tra các hoạt động văn hóa. Thấm nhuần quan điểm văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, cần nâng cao nhận thức của toàn dân để mỗi người đề cao ý thức tham gia giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tích cực đấu tranh với những biểu hiện phản văn hóa, vi phạm chính sách, pháp luật về văn hóa. Tạo điều kiện cho Nhân dân trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước cũng như tự quản lý các hoạt động văn hóa tại cơ sở, tạo tiền đề cho quần chúng nhân dân có nhận thức đúng đắn về vai trò của văn hóa và thực hiện quyền làm chủ của mình, tiến tới xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Phát huy tính tích cực, chủ động, tự quản của cộng đồng dân cư trên cơ sở tôn trọng pháp luật, kết hợp hài hòa giữa quản lý xã hội bằng pháp luật và các quy ước cộng đồng với hoạt động văn hóa.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát trong lĩnh vực văn hóa.

Trong bối cảnh cơ chế thị trường, hoạt động trên lĩnh vực văn hoá ngày càng phức tạp, đa dạng thì vấn đề kiểm tra, thanh tra, giám sát càng có vị trí, vai trò quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc đưa hoạt động văn hoá vào trật tự, kỷ cương, nền nếp. Do vậy, Nhà nước cần thực hiện cơ chế phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn nữa trong hoạt động kiểm tra, giám sát các hoạt động văn hoá. Thực hiện cơ chế hai chiều trong giám sát, đó là cơ quan QLNN giám sát hoạt động văn hóa theo chức năng, nhiệm vụ Nhà nước giao và sự giám sát của người dân đối với cơ quan QLNN về văn hóa. Các cơ quan quản lý, lực lượng tham gia thanh tra, kiểm tra cần kịp thời phát hiện, chấn chỉnh uốn nắn những lệch lạc, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động văn hóa. Người dân giám sát cơ quan nhà nước về thái độ phục vụ, về các hành vi của công chức trong thực thi công vụ. Khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, có dấu hiệu tham nhũng, sách nhiễu thì người dân có quyền tố giác lên các cơ quan có thẩm quyền. Hoàn thiện và bổ sung các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý là điều kiện quan trọng để điều hành việc kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động sản xuất, kinh doanh và cung ứng dịch vụ văn hóa.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý văn hóa.

Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay tất yếu xuất hiện các yếu tố của toàn cầu hóa văn hóa. Càng mở rộng hợp tác trên lĩnh vực kinh tế càng phải chú ý trước nguy cơ “xâm lăng văn hóa” của nước ngoài, trước sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng làm biến đổi đạo đức, lối sống và suy giảm lý tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, Nhân dân. Muốn bình đẳng trong một sân chơi chung, cần phát huy nội lực, nâng cao khả năng thích ứng và trí tuệ. Cơ quan QLNN về văn hóa cần học tập kinh nghiệm công tác quản lý văn hóa của các quốc gia trên thế giới, nhất là chính sách phát triển, chế tác và sản xuất các sản phẩm văn hóa chất lượng cao, kết hợp hoạt động văn hóa trong nước với quảng bá ở nước ngoài, đẩy mạnh chính sách bảo hộ văn hóa, từng bước xây dựng, phát triển nền công nghiệp văn hóa.

Chú thích:
1. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 10/01/2023.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương – Ban Tổ chức Hội nghị văn hóa toàn quốc. Báo cáo Kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc; Xây dựng, phát triển văn hóa sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước; Các định hướng, giải pháp chủ yếu nhằm phát triển văn hóa, con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 22/11/2021. Hà Nội, 2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 202.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Duy Bắc – Vũ Thị Phương Hậu (đồng chủ biên). An ninh văn hóa ở Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn. H. NXB Chính trị quốc gia, 2017.
2. Kết luận ngày 09/6/2020 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
3. Phan Hồng Giang – Bùi Hoài Sơn (đồng chủ biên). Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. H. NXB Chính trị quốc gia, 2013.
4. Nguyễn Văn Hùng. Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trong phát triển văn hóa/Kỷ yếu Hội nghị văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tháng 11/2021.
5. Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) về xây dựng vàphát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
6. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 01/11/2021.