Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh

ThS. Vũ Thị Huyền Trang
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền, là nhân tố hàng đầu bảo đảm cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý là mối quan hệ gắn bó hữu cơ vì mục tiêu chung “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Với tính đặc thù của hệ thống chính trị Việt Nam và những điều kiện mới dưới sự tác động của những biến đối trong nước và thế giới, đòi hỏi phải có những nhận thức mới và hành động mới, quyết liệt hơn để tiếp tục đổi mới về chất của mối quan hệ này. 

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; Đảng lãnh đạo; Nhà nước quản lý.

1. Đảng lãnh đạo

“Đảng lãnh đạo” là một khái niệm được đề cập vào những năm cuối của thế kỷ XIX (đây là tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp công nhân). Giai cấp công nhân tập hợp, đoàn kết các giai cấp tầng lớp khác thực hiện sứ mệnh lịch sử xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng chế độ xã hội mới thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản. V.I.Lênin viết: “Không có sự đồng tình và ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiên phong của mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được. Nhưng sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn, gian khổ mới giành được”1

Kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh chủ trương thành lập chính đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ vai trò của Đảng lãnh đạo trong đấu tranh cách mạng: “phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng”2, “phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền”3

Để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình “Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh;…”4. Hồ Chí Minh cho rằng, khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã giành thắng lợi, chính quyền đã về tay nhân dân, Đảng cần tiếp tục giữ vai trò lãnh đạo nhân dân xây dựng và kiến thiết đất nước: “Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đưa nhân dân lao động đến thắng lợi hoàn toàn”5.

Đảng giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, vai trò này của Đảng không phải tự nhiên mà có, mà là được Nhân dân trao quyền và được kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Người chỉ rõ: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Trong Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam – Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam…, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”6.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng đường lối, chủ trương, cương lĩnh của Đảng. Đường lối, chủ trương, cương lĩnh đúng đắn, phù hợp với sự phát triển, hợp lòng dân là động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng phát triển tự giác; ngược lại, đường lối, chủ trương, cương lĩnh không đúng đắn, không phù hợp với sự phát triển và trái với lòng dân sẽ đưa cách mạng đến thất bại. Người chỉ rõ “phải có đường lối cách mạng đúng, có đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”7. Người phê bình cách hiểu: lãnh đạo chỉ là ra nghị quyết, vạch đường lối, viết chỉ thị theo cách quan liêu. “Cái gì cũng dùng mệnh lệnh. Ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo”8.

Đồng thời, Đảng thể hiện vai trò lãnh đạo đối với nhà nước và xã hội thông qua tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên. Theo Người, tính tiên phong, gương mẫu của đảng viên là sự “kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và Nhân dân”9. “Mọi công việc Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”10. Mọi cán bộ, đảng viên của Đảng dù ở bất kỳ cương vị nào đều phải đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong nắm vững và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị phải thông qua sự kiểm soát, giám sát của Nhân dân. Đảng viên của Đảng xuất thân từ quần chúng nhân dân, là những quần chúng tiên tiến, có phẩm chất đạo đức, tư tưởng trong sáng, phải trải qua nhiều nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện mới được kết nạp Đảng. Nếu đảng viên bị suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống thì sự cầm quyền, lãnh đạo của Đảng cũng dần mất theo.

Mọi sự lãnh đạo của Đảng đều nhằm phục vụ quần chúng nhân dân. Đảng tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tạo thành sức mạnh tổng hợp để chăm lo cho sự nghiệp của Nhân dân. Sự lãnh đạo đó là sự lãnh đạo phục vụ chứ không phải sự lãnh đạo “quan thầy”, coi thường quần chúng nhân dân, đứng trên giương oai với quần chúng nhân dân. Đảng ta ra đời, đông đảo quần chúng nhân dân đã tin theo Đảng, tin theo sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân công nhận sự lãnh đạo của Đảng nhưng không có nghĩa là Đảng giữ mãi địa vị đó, nếu Đảng đánh mất niềm tin của Nhân dân, không chiến thắng được trong cuộc đấu tranh gian khổ, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thì địa vị lãnh đạo của Đảng sẽ không còn. Người khẳng định: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không phải nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”11.

Đảng lãnh đạo nhưng đảng viên vẫn chỉ là thiểu số so với Nhân dân nên cần phải có Nhân dân giúp sức. Vì vậy, người lãnh đạo không được kiêu ngạo, mà phải hiểu thấu lòng dân. Phải dùng kinh nghiệm của Nhân dân, “cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”12. Phải học hỏi Nhân dân: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”13. Tuy nhiên, Người cũng chỉ rõ, Đảng lãnh đạo vừa học hỏi, lắng nghe quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng, không phải dân chúng nói gì cũng phải theo.

2. Nhà nước quản lý

Nhà nước là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ tổ chức thực hiện quyền lực và ý chí của giai cấp thống trị. Nhà nước có các chức năng quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị; đồng thời, thực hiện chức năng trấn áp kẻ thù, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển. Do đó, Nhà  nước vừa mang tính xã hội, vừa mang tính giai cấp.  

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến hai từ Chính phủ – được hiểu như là Nhà nước. Khi nói đến Chính phủ, Người ít đề cập đến vai trò của quản lý mà nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ Nhân dân, đày tớ của dân, công bộc của dân. Lần đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định mô hình Chính phủ công – nông – binh – Chính phủ “của dân chúng số nhiều”. Sau đó, từ thực tiễn cách mạng, Người chuyển sang mô hình Chính phủ đại biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về Chính phủ phục vụ Nhân dân: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của Nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”14. Đối với vai trò là công bộc của Nhân dân thì “các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu cầu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”15. Bản chất của hoạt động Nhà nước là thực hiện quyền lực của Nhân dân đã ủy quyền, hiện thực hóa các quyền, ý chí và nguyện vọng của Nhân dân để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong công việc quản lý đất nước và xã hội.

Nhà nước là tổ chức quyền lực, chính trị của xã hội có giai cấp, thực hiện chức năng tổ chức quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhân dân. Trong đó, Quốc hội – cơ quan đại biểu của Nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp; quyết định những chính sách về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, những nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công việc trước Quốc hội. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh, đối ngoại. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ: một mặt, Nhà nước phải đề cao và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; mặt khác, phải coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của Nhân dân.

Ngày 09/11/2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới xác định Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với 8 đặc trưng. Trong đó chỉ rõ: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”16. Như vậy, trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thì Đảng giữ vai trò lãnh đạo, cầm quyền thông qua đường lối, chủ trương và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhà nước giữ vai trò là cơ quan quyền lực của Đảng, cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước thông qua bộ máy nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức từ trung ương tới cơ sở và sử dụng quyền lực nhà nước để tác động đến các lĩnh vực đời sống xã hội, nhằm điều chỉnh, định hướng xã hội phát triển theo mục tiêu của Đảng đề ra.

3. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, song Đảng không sử dụng quyền để trực tiếp điều hành, quản lý xã hội mà Đảng thể hiện vai trò của mình trong quyết định chế độ chính trị, con đường, mục tiêu phát triển, quan điểm, nguyên tắc xây dựng đất nước. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cơ quan công quyền thực hiện thống nhất quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Như vậy, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thực chất là mối quan hệ giữa lực lượng chính trị thống trị xã hội và bộ máy công quyền của lực lượng ấy. 

Mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong Đảng và Nhà nước ta có sự phân công chặt chẽ như các bộ phận trong chiếc đồng hồ: cái kim, dây cót khác nhau nhưng hợp tác chặt chẽ với nhau. Thiếu một bộ phận nào cũng không được”17. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn nhiều hơn đến trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhằm đạt được mục tiêu cách mạng, mà ít bàn đến mối quan hệ, cơ chế, nội dung của mối quan hệ giữa Đảng và Nhà  nước. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng: nói Đảng lãnh đạo không có nghĩa là Đảng không thực hiện chức năng quản lý; đồng thời, nói Nhà nước quản lý không có nghĩa là Nhà nước không lãnh đạo.

Nội dung cấu thành quyết định sự vững chắc của mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở một số điểm sau:

Một là, Đảng và Nhà nước có chung mục tiêu lãnh đạo cách mạng, mục tiêu hướng tới cuối cùng của Đảng và Nhà nước đều là phục vụ Nhân dân. Trong tư tưởng và thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Đảng ra đời lãnh đạo Nhân dân đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho mình và lãnh đạo cách mạng là để phục vụ quần chúng nhân dân. Sau khi giành độc lập, tự do, Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, đời sống mới đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chính phủ là công bộc của dân”, Chính phủ phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, “Đảng và Chính phủ chỉ lo phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là của nhân dân lao động chân tay và lao động trí óc”18. “Mọi chính sách của Đảng và Chính phủ ta đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”19.

Hai là, để thực hiện mục tiêu phục vụ Nhân dân, Đảng và Nhà nước phải đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng và tổ chức thi hành có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thấy rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc xây dựng và hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách: “Đảng và Chính phủ là Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu của cuộc đấu tranh”; đồng thời, cần phải có “chính sách rõ ràng, phương châm đúng đắn, kế hoạch đầy đủ, có tổ chức, có lãnh đạo, chứ không phải nói “phóng tay phát động” quần chúng là phóng tay lung tung. Khi thi hành không được “tả”, không được “hữu”. “Tả” và “hữu” đều thất bại. Phải theo đúng chính sách và phương châm”20. Đường lối của Đảng và chính sách của Chính phủ không chỉ có sự thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện mà đòi hỏi phải thường xuyên bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện thực tế của cách mạng. Người chủ trương “Chúng ta phải cùng nhau cố gắng để làm cho đời sống của nhân dân ngày càng đầy đủ, sung sướng. Đó là chính sách do Đảng và Chính phủ ta đề ra”21. Đồng thời, Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải đưa “Đường lối và chính sách của Đảng và Chính phủ phải được thật thông suốt từ trên đến dưới”22.

Việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn và lãnh đạo thực hiện cho được chủ trương, đường lối, chính sách là yêu cầu đặt ra cho Đảng và Nhà nước. Làm tốt yêu cầu đó cũng chính là quá trình tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Đảng và Nhà nước không thể xây dựng và thực hiện được chủ trương, đường lối, chính sách của mình nếu không có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau.

Ba là, Đảng và Nhà nước có chung nguồn lực để thực hiện mục tiêu của mình, đó chính là nguồn lực trong Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta dùng lực lượng của nhân dân để xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung sướng”23.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng là nguồn lực quan trọng của Đảng và Chính phủ. Theo Người, Đảng và Chính phủ nên tập trung đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng viên, bởi họ không chủ là lực lượng đề xuất xây dựng chủ trương, chính sách mà còn là lực lượng thực hiện, tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách đó đến từng người dân. Đối với cán bộ, đảng viên, Người yêu cầu phải xác định rõ lập trường cách mạng, tư tưởng phải thông: “Lập trường giai cấp của cán bộ phải vững chắc dứt khoát”, “Phải thấu suốt chính sách của Đảng và Chính phủ. Phải đi đúng đường lối quần chúng. Phải thật sự gần gũi nhân dân, lắng nghe ý kiến và nguyện vọng của nhân dân, học hỏi kinh nghiệm của nhân dân”24. Đồng thời, Người cũng căn dặn cán bộ, đảng viên phải giữ đạo đức cách mạng để xứng đáng là “đày tớ trung thành của nhân dân, người cán bộ tốt của Đảng và Chính phủ”, “Phải thiết thực quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải cần, kiệm, liêm, chính. Phải gương mẫu. Phải có tinh thần trách nhiệm cao độ. Phải chống quan liêu, mệnh lệnh, hình thức, chống tham ô, lãng phí.”25.

Phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, mệnh lệnh hành chính của Nhà nước và đề cao công tác giáo dục, thuyết phục, nêu gương, kiểm tra, giám sát. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, chủ trương và chính sách lớn về chính trị, kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh… để Nhà nước thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Đồng thời, cũng trên cơ sở đó, kiện toàn, sắp xếp hệ thống bộ máy nhà nước bảo đảm Nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, hạn chế tính thụ động, ỷ lại vào cơ quan lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng nhất định không can thiệp vào hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, không bao biện và không làm thay nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước.

4. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và Nhân dân làm chủ

Ngày nay, bối cảnh tác động đến mối quan hệ giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân đã có sự thay đổi căn bản. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có sự phát triển mạnh mẽ. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo những nguyên tắc mới, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nước và quyền làm chủ của Nhân dân được đề cao. Đông đảo các tầng lớp nhân dân được nâng cao và trình độ. Kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, công nghệ được hội nhập quốc tế sâu rộng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi tư duy và lối sống của con người. Những sự thay đổi đó đã tác động đến mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý.

Có thể nói, mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ mang tính ổn định, một chiều là chủ yếu, cho thấy cho mối quan hệ này chưa thực sự năng động. Trong đó, Đảng có khởi xướng và đề xuất chủ trương thì Nhà nước và Nhân dân mới thực hiện. Ngược lại, Nhà nước và Nhân dân tác động tới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thúc đẩy, phát huy và nâng cao vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng còn hạn chế, đòi hỏi phải đổi mới nhận thức và cách thức giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.

Đối với Đảng, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Do đó, Đảng phải không ngừng đổi mới toàn diện phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Trong đó, Đảng tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước và tự kiểm soát được quyền lực lãnh đạo, cầm quyền của mình. Phải tăng cường mở rộng dân chủ, tăng cường pháp quyền XHCN để dân chủ và pháp quyền ngày càng trở thành động lực phát triển của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. 

Đối với Nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện bộ máy theo hướng tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu nhà nước kiến tạo. Trong đó, quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước; bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; phòng, chống lạm dụng quyền lực nhà nước để tham ô, tham nhũng, lãng phí; bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; đề cao công bằng và công lý trong toàn bộ hoạt động tư pháp.

Đối với hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị nhất nguyên. Hệ thống này có nhiều ưu điểm song cũng có những hạn chế nhất định, như việc thực hiện dân chủ vẫn còn hình thức, quyền làm chủ của Nhân dân chưa được phát huy đầy đủ. Để khắc phục hạn chế đó, Đảng và Nhà nước phải thực sự dân chủ và minh bạch; đồng thời Nhân dân cũng phải nâng cao năng lực làm chủ. 

Về phía Nhân dân, cần tăng cường vai trò làm chủ của mình trong giám sát và phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm khắc phục hạn chế, khuyết điểm của hệ thống chính trị. Việc thừa nhận hạn chế, thiếu sót của nền dân chủ nhất nguyên là cơ sở để nâng cao nhận thức và tìm kiếm các giải pháp hiệu quả tăng cường mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.

5. Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ là mối quan hệ cơ bản trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay

Trong mối quan hệ này, Nhân dân giữ vai trò là trung tâm, chủ thể và mục tiêu hướng tới trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước. Đảng vừa là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, vừa là bộ phận của hệ thống chính trị. Đảng phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, và chịu sự kiểm tra giám sát của Mặt trận Tổ quốc. Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước phải được coi là quan hệ gắn với quyền lực, do sự “cầm quyền” của Đảng. Đảng nắm quyền lực nhà nước bằng cách Đảng “hóa thân” sự lãnh đạo của mình trong sự quản lý của Nhà nước, đảng viên của Đảng là những người tham gia vào bộ máy nhà nước. 

Chú thích:
1. V.I. Lênin toàn tập. Tập 39. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2005, tr. 251.
2, 3, 4, 5, 10, 20. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 274, 274, 274, 274, 281, 46. 
6. Hiến pháp năm 2013.
7, 19. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 608, 455.
8, 12,13. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,  2011, tr. 333, 326, 325.
9. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 50
11. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 672.
14. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 518.
15. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 21.
16. Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Hà Nội, 2022.
17, 24, 25. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 335, 438, 484.
18, 21. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 10. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 454, 304.
22. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 11. H.  NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 485.
23. Hồ Chí Minh toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 432.