ThS. Nguyễn Đức Thăng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân phản ánh chiều sâu tư tưởng nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mối quan tâm thường xuyên và là trách nhiệm của Đảng, Chính phủ và của toàn xã hội. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến nay, quan điểm của Đảng về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân không ngừng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện.
Từ khóa: Chăm sóc sức khỏe; Nhân dân; quan điểm của Đảng; thời kỳ đổi mới.
1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng tới công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đề ra các chủ trương, chính sách nhằm chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, coi sức khỏe của Nhân dân là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi công dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) chỉ rõ: sức khỏe của Nhân dân, tương lai của giống nòi là mối quan tâm thường xuyên của Đảng và Nhà nước ta, là trách nhiệm của tất cả các ngành, các đoàn thể, là trách nhiệm và lợi ích thiết thân của mỗi công dân1.
Đại hội xác định một số nhiệm vụ của công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, đó là: tập trung sức nâng cao chất lượng các hoạt động y tế và đạt được tiến bộ rõ rệt trong việc chăm sóc sức khỏe của Nhân dân. Có biện pháp tích cực và chính sách thích hợp nhanh chóng củng cố mạng lưới y tế, nhất là y tế huyện, quận và cơ sở. Phát động rộng rãi phong trào quần chúng và huy động lực lượng các ngành tham gia bảo vệ và làm sạch môi trường, phòng và chống dịch, phòng và chống các bệnh xã hội, nghề nghiệp… Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác khám và chữa bệnh. Tăng cường giáo dục cán bộ, nhân viên y tế về thái độ, tinh thần phục vụ. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế, không ngừng nâng cao trình độ của nền y học và y tế nước ta. Cố gắng đầu tư thêm cho công tác y tế và chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, văn hoá của đội ngũ cán bộ y tế. Tranh thủ sự hợp tác quốc tế và sử dụng đúng các nguồn viện trợ trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe cho Nhân dân.
Nhất quán với chủ trương trên, Đại hội lần thứ VII của Đảng (năm 1991) nhấn mạnh: bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của Nhân dân phải trở thành hoạt động tự giác của mỗi người, với sự quan tâm của Nhà nước và của toàn xã hội. Phát triển các hoạt động y tế bằng khả năng của Nhà nước và của Nhân dân, theo hướng dự phòng là chính; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc. Sắp xếp lại hệ thống y tế, củng cố y tế cơ sở, đặc biệt là ở miền núi. Xây dựng kế hoạch bảo vệ sức khỏe theo vùng lãnh thổ2. Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội, Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 14/01/1993 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của Nhân dân, nhấn mạnh quan điểm: sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc… Sự nghiệp chăm sóc sức khỏe là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền, các đoàn thể và các tổ chức xã hội, trong đó ngành Y tế giữ vai trò nòng cốt.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) bổ sung quan điểm: sự cường tráng về thể chấtlà nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể. Song song với phát triển kinh tế, chăm lo cho việc ăn, ở của dân ngày càng tốt hơn, các ngành y tế, thể dục thể thao, dân số và kế hoạch hoá gia đình phải làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Đại hội nhấn mạnh: phải rất quan tâm xây dựng và củng cố hệ thống y tế cơ sở, làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng, chống các bệnh dịch, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát động rộng rãi phong trào thể dục thể thao quần chúng3.
Xuất phát từ nhận thức chăm lo cho con người, cho cộng đồng xã hội là trách nhiệm của toàn xã hội, của mỗi đơn vị, của từng gia đình, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, chúng ta chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội theo tinh thần xã hội hóa,trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Theo trình độ phát triển kinh tế, Nhà nước tăng dần nguồn đầu tư cho chăm sóc sức khỏe và các vấn đề xã hội; đồng thời khai thác mọi tiềm năng của Nhân dân, của địa phương, của các hội, đoàn, tranh thủ các nguồn viện trợ từ nước ngoài và sử dụng có hiệu quả để chăm lo cho con người và xã hội.
Để giải quyết các hạn chế, bất cập của bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, Đảng đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp cơ bản: cải thiện các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe của người dân, nhất là sức khỏe bà mẹ, trẻ em, nâng cao tuổi thọ bình quân và giảm tỷ lệ tử vong. Tiếp tục củng cố hệ thống y tế nhà nước, đặc biệt là y tế xã, huyện. Mở rộng, đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Đổi mới và tăng cường công tác quản lý bệnh viện, kiện toàn hệ thống khám chữa bệnh đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của Nhân dân. Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho các gia đình chính sách, cho người nghèo. Tăng đầu tư của Nhà nước kết hợp với tạo thêm nguồn kinh phí khác cho y tế như phát triển bảo hiểm, mở rộng hợp tác quốc tế.
Khuyến khích và quản lý tốt hoạt động chăm sóc sức khỏe Nhân dân của các tổ chức và cá nhân. Có chính sách đãi ngộ để sử dụng tốt cán bộ y tế, nhất là ở những nơi khó khăn. Ngăn chặn tình trạng xuống cấp trong ngành y tế, từ cơ sở vật chất, trang thiết bị đến chất lượng và thái độ phục vụ. Chấn chỉnh việc thu và sử dụng viện phí. Chống tiêu cực trong các dịch vụ y dược. Đề cao y đức “thầy thuốc như mẹ hiền”. Đẩy mạnh công tác y học dự phòng. Thực hiện rộng rãi các biện pháp vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm và cung cấp nước sạch.
Tiếp tục khẳng định về tính công bằng, hiệu quả trong chính sách bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) chỉ rõ: nâng cao tính công bằng và hiệu quả trong tiếp cận và sử dụng các dịch vụ chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho Nhân dân. Tiếp tục thực hiện các chương trình mục tiêu về y tế quốc gia. Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ở tất cả các tuyến. Đặc biệt, coi trọng tăng cường dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, người bị di chứng chiến tranh, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển các cơ sở khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội.
Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân trong tình hình mới, khẳng định: sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của Nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
Tiếp tục nhấn mạnh chủ trương trên, Đại hội lần thứ của Đảng X (năm 2006) xác định đổi mới và nâng cao chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát triển con người. Trong đó, tăng đầu tư của Nhà nước và tạo chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng, các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, huyện, các trung tâm y tế vùng, các cơ sở y tế chuyên sâu; đồng thời, có chính sách trợ giúp các đối tượng chính sách, người nghèo, người có thu nhập thấp được tiếp cận dịch vụ y tế. Đồng thời, thí điểm và chuyển dần các bệnh viện công lập, trước hết là bệnh viện lớn, bệnh viện chuyên khoa sang hoạt động theo cơ chế hạch toán không vì lợi nhuận.
Đại hội lần thứ XI của Đảng (năm 2011) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 với quan điểm nhất quán trong bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân, Đại hội xác định: nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; quan tâm và phát triển y tế dự phòng, củng cố mạng lưới y tế cơ sở, nâng cao năng lực của bệnh viện tuyến tỉnh và tuyến huyện, hiện đại hóa một số bệnh viện đầu ngành. Những định hướng lớn về phát triển xã hội, Đảng khẳng định: không ngừng nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất…4.
Trên cơ sở đó, ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, tiếp tục khẳng định mục tiêu không ngừng phấn đấu nâng cao sức khỏe, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam. Nghị quyết xác định, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi người dân và của cả xã hội. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y tế là nòng cốt.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập quốc tế, thực hiện bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản. Trong đó, Đảng xác định tập trung nguồn lực cho các đối tượng yếu thế trong xã hội với mục tiêu cụ thể, đến năm 2030, giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 15%o, dưới 1 tuổi xuống còn 10%o. Bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tham gia các hoạt động kinh tế – xã hội tích cực, chủ động xây dựng môi trường thân thiện với người cao tuổi; bảo đảm 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế được quản lý sức khỏe, khám, chữa bệnh, chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.
2. Thực tiễn thực hiện chủ trương của Đảng, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân trong thời kỳ đổi mới
Thứ nhất, hệ thống chính sách, pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã thông qua, ban hành các Luật, chiến lược, chương trình, như: Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (năm 1989), Luật Phòng, chống HIV (năm 2006), Chiến lược quốc gia về y tế dự phòng (năm 2006), Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (năm 2007), Nghị quyết số 18/2008/QH12 ngày 03/6/2008 về đẩy mạnh thực hiện chính sách, pháp luật xã hội hóa để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Bảo hiểm y tế (năm 2009), Luật Khám bệnh, chữa bệnh (năm 2009, sửa đổi năm 2023), Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (năm 2013), Chương trình sức khỏe Việt Nam (năm 2018)…
Thứ hai, quy mô và năng lực cung ứng dịch vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân ngày càng được nâng cao. Hệ thống y tế các tuyến từ trung ương đến địa phương ngày càng được củng cố và phát triển. Các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, y tế dự phòng, công tác kiểm soát bệnh truyền nhiễm và bệnh không lây nhiễm được đẩy mạnh.
Thứ ba, ngân sách nhà nước và nguồn lực xã hội đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân ngày càng tăng. Xã hội hóa công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho Nhân dân được đẩy mạnh và đạt được nhiều tiến bộ. Chính sách tài chính y tế có nhiều đổi mới; diện bao phủ bảo hiểm y tế ngày càng được mở rộng. Tỷ lệ chi tiền của hộ gia đình cho khám, chữa bệnh giảm nhanh; năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, tiếp cận được hầu hết các kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Thứ tư, các chỉ số sức khỏe, tuổi thọ bình quân của người dân được cải thiện. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là điểm sáng về thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc. Đạo đức, phong cách, thái độ phục vụ, trình độ chuyên môn của cán bộ y tế được chú trọng, nâng cao. Nhiều tấm gương y bác sĩ tận tuỵ chăm sóc, cứu chữa người bệnh được xã hội trân trọng, ghi nhận.
Với những thành tựu trên, hầu hết chỉ số cơ bản về sức khỏe của Việt Nam đều đạt so với mục tiêu quốc gia và Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ cũng như Mục tiêu Phát triển bền vững đến năm 2030 và tốt hơn mức trung bình của các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người.
Các chỉ số về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em ngày càng được cải thiện; tỷ số chết mẹ (MMR) năm 1990 là 233/100.000 trẻ đẻ sống, đã giảm còn 43/100.000 trẻ đẻ sống năm 2017; tỷ suất tử vong trẻ dưới 1 tuổi đã giảm từ 36.9 trẻ/1.000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn 16.9 trẻ/1.000 trẻ đẻ sống năm 20176. Năm 1990, tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi là 1/20 em (51 em/1.000 trẻ sinh sống), mức giảm hằng năm (1990 – 2016) là 3,3% tính trên cả nước. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi cũng giảm tương ứng từ 33,9% năm 2007 xuống còn 18,1% năm 20207. Đến hết năm 2023, số bác sĩ trên 10.000 dân đạt 12,5 bác sĩ. Số giường bệnh trên 10.000 dân đạt 32 giường bệnh. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 93,2% dân số. Tuổi thọ trung bình tăng từ 71,3 năm 2002 lên 73,7 năm 2023. Tỷ lệ dân số được quản lý sức khỏe trên 80%8. Trạm y tế xã được triển khai từ năm 1985, đến năm 1995 cả nước không còn xã trắng về tiêm chủng. Việt Nam đã thanh toán hoàn toàn bệnh bại liệt vào năm 2000 và loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh vào năm 2005, bệnh sởi năm 2015.
Đặc biệt, trong đại dịch Covid-19, với tinh thần đặt sức khỏe, tính mạng của người dân lên trên hết, trước hết, với sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội chúng ta đã vượt qua đại dịch Covid-19. Từ một nước tiếp cận sau về vaccine, có tỷ lệ tiêm chủng rất thấp, Việt Nam trở thành một trong 5 nước có tỷ lệ bao phủ vaccine cao nhất và là quốc gia duy nhất trong nhóm này có dân số đông khoảng 100 triệu người, Việt Nam trở thành nước “đi sau nhưng về trước” về phòng, chống dịch.
Sau 3 năm chống dịch, từ ca mắc Covid-19 đầu tiên ngày 23/01/2020 – 20/10/2023, Covid-19 đã chính thức được chuyển phân loại từ bệnh truyền nhiễm nhóm A sang nhóm B tại Việt Nam đã thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần đoàn kết của Đảng, Chính phủ, Nhân dân. Như lời khẳng định của Thủ tướng Phạm Minh Chính trong Hội nghị trực tuyến toàn quốc tổng kết công tác phòng chống dịch Covid-19: thành công trong cuộc chiến chống đại dịch một lần nữa khẳng định tinh thần Việt Nam, bản lĩnh Việt Nam không lùi bước trước mọi khó khăn, thách thức, càng áp lực lại càng nỗ lực.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Chất lượng môi trường sống, làm việc, chế độ dinh dưỡng, rèn luyện thân thể, văn hoá tinh thần… ở nhiều nơi chưa được chú trọng, bảo đảm. Hệ thống tổ chức y tế còn thiếu ổn định, hoạt động chưa thực sự hiệu quả, đặc biệt là y tế dự phòng, y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe ban đầu. Chất lượng dịch vụ, nhất là ở tuyến dưới chưa đáp ứng yêu cầu. Tình trạng quá tải ở một số bệnh viện tuyến trên chậm được khắc phục. Công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường còn nhiều hạn chế. Chênh lệch chỉ số sức khỏe giữa các vùng, miền còn lớn. Tỉ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi còn cao. Tầm vóc người Việt Nam chậm được cải thiện. Số năm sống khỏe chưa tăng tương ứng với tuổi thọ. Việc thực hiện cơ chế tự chủ của một số bệnh viện gặp nhiều khó khăn do chưa hoàn thiện về hành lang pháp lý. Mua sắm đấu thầu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế còn vướng mắc.
3. Một số kinh nghiệm
Một là, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Thực tiễn ở đâu cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, mặt trận và các đoàn thể nhân dân nhận thức sâu sắc và chỉ đạo quyết liệt thì ở đó công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân đạt được kết quả cao.
Hai là, công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe Nhân dân phải thực hiện theo tinh thần xã hội hóa. Trong đó đầu tư của Nhà nước (ngân sách nhà nước, bảo hiểm y tế), đóng vai trò chủ đạo, đồng thời huy động thêm các nguồn lực từ xã hội. Đa dạng hóa các hình thức hợp tác công – tư, bảo đảm minh bạch, công khai, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt công – tư trong cung cấp dịch vụ y tế.
Ba là, xây dựng hệ thống y tế theo hướng công bằng, chất lượng, hiệu quả, thống nhất và hội nhập, kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền. Chú trọng đầu tư phát triển y tế cơ sở, y tế dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Bốn là, quan tâm phát triển nguồn nhân lực y tế, coi đó là bước đột phá trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe người dân. Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ y tế. Có chính sách đãi ngộ, thu hút đủ mạnh và xứng đáng với cán bộ y tế.
Năm là, thực hiện truyền thông chủ động, đi trước, đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục để toàn xã hội đồng thuận, tự giác tham gia các hoạt động phòng ngừa, bảo hiểm y tế, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ sức khỏe cho cá nhân, gia đình, cộng đồng.
Chú thích:
1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Phần I (Đại hội VI, VII, VIII, IX). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, tr. 91, 399, 647-648.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Phần II (Đại hội X, XI, XII). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2019, tr. 329.
5. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
6. Theo kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới (năm 2019).
7. Theo kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng quốc gia 2019 – 2020 doViện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) triển khai phối hợp với Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế: Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hiệp quốc (FAO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Ngân hàng Thế giới (WB), IGN, CDC (Mỹ), Institute of Reseach for Development (Pháp), FHI 360/FHI Solutions (Intake, Alive & Thrive), Dự án INDDEX – Đại học Tufts (Mỹ) tổ chức.
8. Bộ Y tế. Báo cáo tổng kết công tác y tế năm 2023 và nhiệm vụ, giải pháp năm 2024, Hà Nội, 2024.