Chuyển đổi số nông nghiệp xanh Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa

ThS. Nguyễn Trung Hiếu
Ngân hàng BIDV – Chi nhánh Kinh Bắc

(Quanlynhanuoc.vn) – Nông nghiệp xanh ngày càng có vai trò quan trọng trong đời sống của người dân và trở thành một bộ phận không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Để hoàn thiện đề án chương trình nông nghiệp xanh, hướng tới đưa nông nghiệp Việt Nam tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu, cần có những hoạch định kế hoạch và áp dụng công nghệ, kỹ thuật chuyển đổi số một cách đồng bộ và linh hoạt dựa trên thực tế và những lợi thế về điều kiện tự nhiên của Việt Nam.

Từ khóa: Chuyển đổi số, nông nghiệp xanh, kinh tế, chuỗi giá trị, toàn cầu hóa.

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, trước xu thế phát triển cũng như đòi hỏi của bảo đảm môi trường, bảo đảm sản phẩm sạch trong lĩnh vực nông nghiệp trên phạm vi toàn cầu, đã và đang đặt ra nhiệm vụ phải chuyển đổi số nông nghiệp xanh của tất cả các quốc gia, lãnh thổ trên toàn thế giới. Những năm qua, Việt Nam cũng đã rất tích cực triển khai chuyển đổi số nông nghiệp xanh.

Để thực hiện thành công chuyển đổi số nông nghiệp xanh, chúng ta cần áp dụng đồng bộ các giải pháp về tổ chức sản xuất, như: giống chất lượng cao, quy trình canh tác theo hướng hữu cơ, GAP trên cơ sở chuyển đổi số, sử dụng vật tư phân bón hữu cơ hoặc hữu cơ vi sinh, thuốc trừ sâu, thuốc thú y có nguồn gốc sinh học, coi phụ phẩm nông nghiệp là nguyên liệu chế biến phân hữu cơ, kết hợp với chế biến sâu, sản xuất theo chuỗi giá trị, dựa trên các hợp tác xã kiểu mới, các doanh nghiệp nông nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho nông nghiệp – công nhân nông nghiệp hiện đại, xây dựng thương hiệu quốc gia và quốc tế, dựa vào tài nguyên thiên nhiên, khai thác triệt để các nguồn gen bản địa của Việt Nam và công nghệ hiện đại của thế giới.

2. Thực trạng việc chuyển đổi số trong nông nghiệp của Việt Nam

Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Việt Nam xác định nông nghiệp là 1 trong 8 lĩnh vực được ưu tiên thực hiện chuyển đổi số. Việc thiết lập kiến trúc dữ liệu nền tảng số của ngành Nông nghiệp cũng như tăng cường sự phối hợp giữa địa phương với trung ương trong bảo vệ các hoạt động nông nghiệp xanh và bền vững.

Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thành lập Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp thực hiện chức năng tham mưu, tổ chức triển khai hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, xây dựng và phát triển chính phủ điện tử trong ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Với sự nỗ lực, quyết tâm của các bên liên quan, sự phối hợp chặt chẽ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam với Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc, các tổ chức quốc tế và các địa phương sẽ góp phần thực hiện thành công chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp.

Chuyển đổi số nông nghiệp là yêu cầu tất yếu khách quan và là trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi của cả ngành Nông nghiệp, doanh nghiệp và đặc biệt là người nông dân. Những giải pháp chuyển đổi xanh và bền vững của ngành Nông nghiệp thời gian gần đây đã diễn ra khá sôi động và hiệu quả. Bằng việc sử dụng công nghệ để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh thông minh thích ứng với khí hậu và tạo sinh kế bền vững của nông dân địa phương, chúng ta đang cùng nhau mở đường cho một tương lai xanh hơn, thịnh vượng hơn cho nền nông nghiệp Việt Nam.

Với sự nỗ lực, quyết tâm của các bên liên quan, sự phối hợp chặt chữ với các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và các địa phương, việc chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp đã có nhiều tiến bộ. Hệ thống truy xuất nguồn gốc các-bon được số hóa đối với 2 mặt hàng xuất khẩu, gồm quả thanh long và tôm của Việt Nam có ý nghĩa quan trọng đối với chính quyền địa phương, doanh nghiệp, nhà sản xuất và người tiêu dùng hướng đến “nền kinh tế xanh”. Việc tuân thủ các chuẩn mực “xanh” và tiêu chuẩn “xanh” là yêu cầu như một xu hướng mới. Bằng việc sử dụng công nghệ để thúc đẩy các hoạt động kinh doanh thông minh thích ứng với khí hậu và tạo sinh kế bền vững của người nông dân, chúng ta đang cùng nhau mở đường cho một tương lai xanh hơn, thịnh vượng hơn cho nền nông nghiệp Việt Nam.

Năm 2023, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành 3,83%, tăng trưởng cao trên nhiều lĩnh vực, như: trồng trọt tăng 2,6%, chăn nuôi tăng 5,1%, lâm nghiệp tăng 3,2% và thủy sản tăng 3,6%. Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 53 tỷ USD1. Tuy nhiên, ngành nông nghiệp đang gặp nhiều thách thức, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn sản xuất, như: giá vật tư nông nghiệp tăng cao, giá nhân công, chi phí trong sản xuất nông nghiệp cao đã hạn chế không mở rộng sản xuất của người nông dân.

Quá trình tích tụ ruộng đất diễn ra chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất hàng hóa quy mô lớn. Sản xuất nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ cao, ảnh hưởng đến việc đầu tư, áp dụng cơ giới hóa; nhất là khâu sơ chế, bảo quản sản phẩm. Quỹ đất trồng trọt ngày càng giảm do quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp. Thời tiết, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… đã ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất. Nông nghiệp Việt Nam là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất về biến đổi khí hậu, có thể kể đến: bão lũ, dịch bệnh, lưu lượng nước ngọt giảm không đủ để phục vụ sản xuất nông nghiệp, giảm diện tích đất,… đã làm giảm năng suất, giảm chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Hiện nay, tỷ lệ nông dân Việt Nam sử dụng internet hằng ngày khá cao. Đây là một trong những thuận lợi giúp nông dân ứng dụng số hóa vào sản xuất. Việc ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp không chỉ giúp sản phẩm nông, lâm, thủy sản của nông dân đáp ứng được đòi hỏi của thị trường về tính minh bạch trong quá trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm mà chuyển đổi số còn giúp nông dân gia tăng giá trị, hiệu quả của nông sản.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn coi trọng đến việc thiết lập kiến trúc dữ liệu nền tảng số của ngành nông nghiệp, cũng như tăng cường sự phối hợp giữa địa phương với Trung ương trong bảo vệ các hoạt động nông nghiệp xanh và bền vững.

Chuyển đổi số nông nghiệp áp dụng quá trình ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số từ sản xuất đến chế biến, phân phối, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và khác biệt cơ bản giữa nông nghiệp số và nông nghiệp truyền thống chính là ở việc áp dụng các công nghệ kỹ thuật số (dữ liệu lớn, điện toán đám mây, internet vạn vật…) vào toàn bộ hoạt động của ngành, làm thay đổi cách thức quản lý, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ truyền thống sang hiện đại và thông minh.

Ứng dụng công nghệ Data Analytics (phân tích dữ liệu) vào phân tích và quản lý, toàn bộ vùng khí hậu sẽ được cảnh báo rủi ro cho người dân sớm (72 giờ trước khi cơn bão đi qua), từ đó sẽ có biện pháp ứng phó kịp thời. Chuyển đổi số lĩnh vực nông nghiệp đã giúp kết nối 9 triệu hộ nông dân với  các doanh nghiệp chế biến, thương mại và 100 triệu người tiêu dùng trên cả nước, hàng tỷ người dùng trên thế giới2. Nhờ đó, ngành nông nghiệp Việt Nam có thể thay đổi từ mô hình sản xuất nhỏ lẻ, kém hiệu quả sang mô hình sản xuất mới, có sự liên kết chuỗi giá trị.

Tiềm năng chuyển đối số trong ngành Nông nghiệp còn rất lớn, có thể ứng dụng trên toàn lĩnh vực:

(1) Đối với lĩnh vực trồng trọt: Công nghệ IoT, Big Data đã được ứng dụng thông qua phần mềm để phân tích môi trường, chủng loại và giai đoạn phát triển của cây. Nhờ đó, người tiêu dùng có thể truy xuất nguồn gốc và theo dõi quá trình sinh trưởng của cây theo thời gian thực.

(2) Đối với lĩnh vực chăn nuôi: Công nghệ IoT, sinh học, blockchain được ứng dụng rộng rãi trong các trang trại chăn nuôi.

(3) Đối với lĩnh vực lâm nghiệp: Công nghệ DND mã vạch được ứng dụng vào việc quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản. Còn công nghệ GIS và ảnh viễn thám được sử dụng để thiết kế phần mềm giám sát, phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng và phần mềm phát hiện sớm, cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ sinh.

(4) Đối với lĩnh vực thủy sản: Ứng dụng công nghệ trong nuôi trồng thủy sản: Công nghệ biofloc, công nghệ nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ nano, công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). Ứng dụng các công nghệ trong quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ: Máy đo dòng chảy, thiết bị dò cá sử dụng sóng siêu âm, máy thu lưới vây đứng, điện thoại vệ sinh, hệ thống định vị toàn cầu (GPS), hệ thống thu – thả lưới chụp, công nghệ GIS. Ứng dụng công nghệ trong chế biến thủy hải sản: Công nghệ tự động hóa.

Doanh nghiệp có thể áp dụng một số giải pháp chuyển đổi số nông nghiệp, như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng công nghệ vào quản lý đất đai, nâng cao khả năng tiếp cận vốn, xây dựng nền tảng cơ sở dữ liệu: nhà máy thông minh trong công nghiệp chế biến,các công nghệ trong nhà máy thông minh,thương mại điện tử và mô hình bán hàng đa kênh.

Báo cáo thương mại điện tử các nước Đông Nam Á năm 2019 của Google, Temasek và Brain & Company dự đoán tốc độ tăng trưởng trung bình cho cả giai đoạn tới 2025 của thương mại điện tử Việt Nam là 29%, đạt 43 tỷ USD và đứng thứ 3 trong khối ASEAN3.

Thương mại điện tử bước đầu sẽ giúp nâng cao nhận diện thương hiệu sản phẩm, trong khi có tiềm năng lớn giúp tăng nguồn doanh thu trong thị trường trong và ngoài nước. Khách hàng hiện nay ngày càng có những tiêu chuẩn, yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, chú trọng hơn tới dinh dưỡng và sức khỏe. Do đó, việc tiến tới tối ưu trải nghiệm khách hàng sẽ giúp các doanh nghiệp chăm sóc “sức khỏe tinh thần” của khách hàng, qua đó gia tăng gắn kết và độ trung thành với thương hiệu.

Bên cạnh những thuận lợi, hiện vẫn còn có nhiều hạn chế về lĩnh vực chuyển đổi số trong nông nghiệp, như: doanh nghiệp tham gia chuyển đổi số còn ít. Chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn cao trong nông nghiệp số còn hạn chế nên khó tiếp cận và làm chủ công nghệ tiên tiến. Các chuyên gia yếu về thực hành; người nông dân còn e ngại trong việc chuyển đổi số; tỷ lệ già hóa lao động ngành nông nghiệp diễn ra nhanh. Cả nông dân và doanh nghiệp đều thiếu hiểu biết về kinh doanh thương mại điện tử.

Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ, phân tán, việc khai thác đất trong sản xuất nông nghiệp còn chưa thực sự hiệu quả do trình độ cơ giới hóa còn thấp và chưa sử dụng nhiều công nghệ hỗ trợ. Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn khi triển khai các hợp đồng chuyển nhượng đất cùng lúc với nhiều hộ dân. Ngành nông nghiệp chưa thu hút được vốn FDI. Cả nông dân và doanh nghiệp đều khó tiếp cận với nguồn vốn tín dụng trong nước, cơ sở dữ liệu khoa học đồng bộ về môi trường, thị trường, công nghệ còn thiếu. Việc tổng hợp dữ liệu cũng gặp nhiều khó khăn.

3. Một số kiến nghị để phát triển nông nghiệp xanh

Để hội nhập trong kinh tế nông nghiệp toàn cầu, Việt Nam cần có những bước đi mới và có tầm nhìn để chuyển đổi sang hệ thống lương thực thực phẩm xanh, ít phát thải và bền vững, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, về nguồn vốn đầu tư. Việc hình thành và phát triển các mô hình sản xuất theo hướng “xanh” đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn hơn so với mô hình sản xuất thông thường, do đó cần có sự hỗ trợ nguồn vốn cho việc phát triển. Để có nguồn vốn đầu tư cho tăng trưởng xanh, ngành Nông nghiệp cần chú trọng huy động các nguồn lực xã hội, nhất là từ doanh nghiệp cho thực hiện các mục tiêu tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, phương thức, thủ tục hỗ trợ vay vốn, thu nợ đối với bà con nông dân cần phù hợp với đặc điểm của từng loại mô hình sản xuất; các thủ tục phải đơn giản, thuận tiện.

Thứ hai, bảo đảm môi trường sạch, an toàn. Phát triển nông nghiệp xanh, hình thành nếp sống hài hòa giữa con người và tự nhiên…, trước hết, các nhà quản lý và người dân cần đổi mới tư duy, nhận thức, chủ động thúc đẩy kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, tiêu dùng xanh…

Ngành Nông nghiệp và các địa phương cần tạo đột phá mới bằng hệ thống giải pháp đồng bộ, phát triển nông nghiệp sinh thái theo hướng đa giá trị, đa ngành, lồng ghép các giá trị kinh tế – xã hội, môi trường, phát triển các vùng miền cho phát triển nông nghiệp, bảo đảm sự tương tác với môi trường sinh thái.

Thứ ba, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác nông nghiệp. Để phát triển nông nghiệp xanh, vai trò dẫn dắt của đội ngũ cán bộ, nhà khoa học trực tiếp làm công việc này là rất quan trọng, do đó, ngành Nông nghiệp hết sức chú trọng thường xuyên tập huấn, bồi dưỡng những kiến thức mới, thành tựu mới của lĩnh vực khoa học nông nghiệp cho đội ngũ chuyên môn từ trung ương đến cơ sở. Từ đó, sẽ giúp người nông dân chủ động trong sản xuất; đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học mới vào sản xuất.

Thứ tư, tuyên truyền tập huấn cho người nông dân. Trước hết, cần hướng dẫn cho người nông dân cách sử dụng phân bón hữu cơ thông qua việc tận dụng nguồn phụ phẩm nông nghiệp kết hợp chế phẩm sinh học thay thế phân bón vô cơ. Tuyên truyền lợi ích của việc sản xuất  nông nghiệp sạch: giúp giảm chi phí sản xuất, tạo ra nhiều loại nông sản sạch có giá trị cao, tăng hiệu quả kinh tế,…

Thứ năm, quan tâm tiêu thụ nông sản hàng hóa. Các địa phương cần tạo dựng những vùng sản xuất chuyên canh, quy mô lớn, được chuẩn hóa với những quy trình canh tác chặt chẽ; đồng thời, chuyển đổi số để khớp nối thông tin giữa sản xuất và tiêu thụ, qua đó truy xuất được nguồn gốc sản phẩm. Xây dựng, đào tạo các hợp tác xã tiêu thụ chuyên nghiệp.

4. Kết luận

Như vậy, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu của ngành nông nghiệp Việt Nam và thế giới. Để chuyển đổi số thành công, ngành Nông nghiệp cần phải triển khai các giải pháp trên nhiều phương diện và phối hợp với nhiều cơ quan, ban ngành, doanh nghiệp, nông dân…

Với tiềm năng da dạng sinh học của Việt Nam, sự lao động cần cù, thông minh của nông dân, chính sách hỗ trợ kịp thời của Nhà nước, sự liên kết chặt chẽ giữa hợp tác xã, doanh nghiệp với việc áp dụng nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp kỹ thuật số, phát triển nông nghiệp xanh, Việt Nam tự tin sẽ đạt mục tiêu trở thành cường quốc về nông nghiệp trên thế giới, người nông dân sẽ có thu nhập cao, nông nghiệp Việt Nam không chỉ là trụ đỡ của kinh tế mà nông thôn Việt Nam sẽ là nơi đáng sống nhất và là điểm du lịch xanh của thế giới vào năm 2050.

Chú thích:
1. Tỉnh Bình Dương. Nông nghiệp tăng trưởng 3,83%, cao nhất trong nhiều năm. https://www.binhduong.gov.vn/tin-tuc, ngày 03/01/2024.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông. Nông nghiệp Việt Nam sẽ chuyển đổi số như thế nào? https://mic.gov.vn, ngày 13/12/2021.
3. Bộ Tài chính. Việt Nam đang “rộng đường” phát triển thương mại điện tử. https://www.mof.gov.vn, ngày 04/5/2021.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2022). Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (tháng 9/2022). Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030.
3. Thủ tướng Chính phủ  (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 về phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
4. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030.
5. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
6. Nguyễn Đình Đáp, Phạm Thị Trầm (2022). Xu hướng phát triển nông nghiệp hữu cơ trên thế giới và triển vọng của Việt Nam. https://tapchinganhang.gov.vn, ngày 14/11/2022.