TS. Phùng Văn Hiền
Học viện Hành chính Quốc gia
ThS. Bùi Thị Linh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Quản trị quốc gia cần phải tổ chức cung ứng dịch vụ công, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm thực hiện dịch vụ công theo nhu cầu của xã hội là phục vụ người dân và tổ chức. Đồng thời, Nhà nước cần có chính sách phát huy nguồn lực để cung ứng dịch vụ công hiệu quả, nhận được sự hài lòng của người thụ hưởng, khi đó Nhà nước sẽ đạt được mục đích trong quá trình quản lý.
Từ khóa: Quản trị quốc gia, dịch vụ công, dịch vụ hành chính công, sự hài lòng, người thụ hưởng.
1. Đặt vấn đề
Trong thời đại hiện nay, quản trị nhà nước đối với bất kỳ quốc gia nào đều mang tính chính trị, phục vụ chính trị. Bởi vì Nhà nước là tổ chức quyền lực mang tính chính trị, thể hiện ý chí của đảng chính trị, đảng cầm quyền. Ý chí đó được các cơ quan trong bộ máy quản trị nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật pháp, chính sách để đưa vào cuộc sống. Quản trị nhà nước mang tính chính trị, phục vụ chính trị, nhưng cũng có tính độc lập tương đối ở tính khoa học, tính chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, yếu tố bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cao.
Mục tiêu của quản trị nhà nước là duy trì trật tự công, phục vụ lợi ích công, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; quản trị nhà nước là một dạng quản trị xã hội mang tính quyền lực, sử dựng quyền lực nhà nước để diều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của người dân, phù hợp với các quy luật khách quan.
2. Khái quát về quản trị nhà nước và dịch vụ công
Thứ nhất, về quản trị nhà nước.
Dưới góc độ của khoa học quản trị, quản trị nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đến các quá trình, quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân, thông qua các hoạt động hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra và sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu của Nhà nước, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và phục vụ đắc lực người dân.
Ngày nay, quản trị nhà nước mang tính dân chủ, không phải là cai trị, không mang tính chất độc đoán chuyên quyền, mệnh lệnh hành chính đơn phương mà là quản trị một cách dân chủ theo tinh thần Nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền của người dân tham gia vào quản trị nhà nước, thông qua các hình thức dân chủ tập trung, dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, bằng các phương pháp, kỹ năng, kỹ thuật – công nghệ hiện đại, mở rộng và phát huy dân chủ, thu hút mạnh mẽ người dân và các tổ chức xã hội vào quản trị nhà nước, vào việc tư vấn, phản biện cho thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch của quản trị nhà nước, tạo ra đồng thuận cao trong xã hội; quản trị một cách công khai minh bạch và đề cao trách nhiệm giải trình của các chủ thể quản trị nhà nước trước người dân và công luận.
Quản trị nhà nước là chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, đặc biệt quan trọng của Nhà nước. Đặc điểm, tính chất của quản trị nhà nước bị chi phối bởi bản chất, vai trò của nhà nước. Nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực xã hội, cội nguồn của nó là quyền lực của Nhân dân, là tổ chức đại diện chính thức cho Nhân dân và toàn xã hội. Nhà nước là chủ thể thay mặt Nhân dân quản trị xã hội, nhằm thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, duy trì sự tồn tại, phát triển của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế – xã hội phát triển và phục vụ người dân.
Chủ thể quản trị nhà nước là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Đối tượng (khách thể) quản trị nhà nước bao trùm, rộng lớn và phức tạp; quản trị nhà nước bằng ý chí quyền lực và sức mạnh của Nhà nước thể hiện trong các công cụ, như: thể chế – pháp luật, chính sách của nhà nước và sử dụng các nguồn lực của nhà nước. Quản trị nhà nước đối với bất kỳ quốc gia nào đều mang tính chính trị, phục vụ chính trị. Quản trị nhà nước mang tính dân chủ, có tính định hướng, chủ động và sáng tạo thông qua hoạt động hoạch định, xây dựng, ban hành và chỉ đạo tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch với mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, phương pháp và các nguồn lực cụ thể.
Quản trị nhà nước mang tính tổ chức trực tiếp trên mọi lĩnh vực, mọi ngành, mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội; quản trị nhà nước có tính chất tổng hợp, đa dạng, toàn diện; mang tính khoa học, tính chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật. Quản trị nhà nước khác một cách căn bản với quản trị các tổ chức tư ở chỗ quản trị nhà nước sử dụng các công cụ đặc thù, như: quyền lực công, thể chế, chính sách công, các nguồn lực công; quản trị nhà nước không chạy theo lợi nhuận.
Thứ hai, về dịch vu công.
Dịch vụ công là “sự phục vụ” của Nhà nước cho người dân, sự phục vụ này được thể hiện bằng các hoạt động phi vật chất hay bằng hình thái vật chất. Dịch vụ công vì lợi ích chung, không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này có nghĩa là nhiều dịch vụ công được Nhà nước bảo đảm, trong trường hợp người sử dụng phải trả tiền sử dụng dịch vụ công thì việc thu phí sử dụng này không hướng đến mục tiêu lợi nhuận.
Cách thức cung cấp dịch vụ công dựa trên “niềm tin”, tức là Nhà nước có thể uỷ quyền cho các tổ chức, đơn vị thuộc khu vực công hay khu vực tư cung cấp dịch vụ công cho xã hội. Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các nhu cầu cơ bản, thiết yếu của người dân, lợi ích chung của xã hội, do Nhà nước chịu trách nhiệm trước xã hội (trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư thực hiện) nhằm bảo đảm hiệu quả, ổn định và công bằng xã hội thuộc vai trò trách nhiệm của nhà nước.
Dịch vụ công trong quản trị nhà nước có vai trò phục vụ những nhu cầu cơ bản, thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ của các tổ chức và người dân, thực hiện công bằng và ổn định xã hội. Mọi người dân đều có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ công với tư cách là đối tượng phục vụ của nhà nước. Dịch vụ công do các tổ chức nhà nước hoặc do các tổ chức, đơn vị được Nhà nước uỷ quyền cung cấp.
Nhà nước chịu trách nhiệm bảo đảm cung cấp dịch vụ công cho xã hội thông qua xây dựng và thực hiện cơ chế quản lý, chính sách, thanh tra, kiểm tra, quy định giá và phí dịch vụ; dịch vụ công có thể có hình thái hiện vật hay phi hiện vật; hoạt động cung ứng dịch vụ công có thể được nhà nước tài trợ toàn bộ hoặc do người sử dụng trả phí, song Nhà nước vẫn có trách nhiệm đảm bảo cung ứng các dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Dịch vụ hành chính công mặc dù không thuộc chức năng quản lý của Nhà nước nhưng là hoạt động phục vụ thiết thực cho quản trị nhà nước. Để bảo đảm thực hiện chức năng quản lý, bảo đảm an toàn xã hội, Nhà nước bắt buộc và khuyến khích người dân thực hiện các dịch vụ hành chính công. Việc người dân tham gia sử dụng dịch vụ hành chính công sẽ tạo điều kiện cho quản trị nhà nước hiệu quả.
Dịch vụ hành chính công và dịch vụ công khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện trực tiếp (trước mặt người thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công). Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân.
Theo khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ thì dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng. Gồm bốn mức độ:
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: Là dịch vụ công trực tuyến đảm bảo cung cấp đầy đủ các thông tin về quy trình, thủ tục; hồ sơ, thời hạn; phí và lệ phí thực hiện dịch vụ trên trang web
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: Là dịch vụ công trực tuyến mức 1 và cho phép người sử dụng tải về các mẫu văn bản và khai báo để hoàn thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2 và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ/các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí (nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: Là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực tuyến. Việc trả kết quả có thể thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc gửi qua đường bưu điện cho người sử dụng.
Việc triển khai dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3 và 4 giúp người dân và tổ chức có thể tương tác với chính quyền mọi lúc, mọi nơi qua Internet. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ sẽ được thực hiện trên môi trường mạng. Người dân, doanh nghiệp chỉ cần đến duy nhất một lần để nhận kết quả và thanh toán lệ phí tại cơ quan cung cấp dịch vụ.
Dịch vụ công gồm có 3 nhóm cơ bản:
Nhóm 1, dịch vụ hành chính công, là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý.
Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân. Dịch vụ công trực tuyến bao gồm các mức độ là mức độ 1, mức độ 2, mức độ 3 và mức độ 4.
Các hoạt động nhân danh công quyền nhà nước đáp ứng yêu cầu của người dân từ trật tự trị an tới các thủ tục giấy tờ hành chính, như: cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực hộ tịch, hộ khẩu… bảo đảm các quyền cơ bản của công dân.
Nhóm 2, dịch vụ sự nghiệp công. Các hoạt động nhân danh các cơ quan chức năng nhà nước bảo đảm cho người dân như: giáo dục, y tế, văn hóa, nghiên cứu khoa học… đáp ứng yêu cầu về học tập, chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân và phát triển chung của xã hội. Hoạt động này phần lớn do các tổ chức, cơ quan nhà nước đảm trách hoặc một phần xã hội hóa, hiện nay xu hướng chung là đẩy mạnh xã hội hóa loại dịch vụ này.
Nhóm 3, dịch vụ công ích. Cung ứng các loại “hàng hóa” công cộng như điện, nước sinh hoạt, giao thông, bưu điện, vệ sinh môi trường. Loại dịch vụ công này phần lớn do các doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm. Có một số hoạt động ở địa bàn cơ sở do tổ chức hoặc cá nhân đứng ra đảm nhiệm, như vệ sinh môi trường, thu gom vận chuyển rác, cung ứng nước sạch. Tuy nhiên, các hoạt động này do các cơ quan nhà nước chuyển giao hoặc thực hiện theo hợp đồng ủy quyền với yêu cầu và chất lượng cụ thể.
Trong 3 loại dịch vụ công nêu trên, dịch vụ hành chính công là loại dịch vụ công đặc biệt có những đặc trưng cơ bản riêng, đó là:
– Dịch vụ hành chính công là chỉ do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện, việc cung cấp dịch vụ hành chính công luôn gắn với chủ thể mang quyền lực nhà nước, gắn với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cấp các loại giấy phép, giấy tờ gắn với nhân thân của cá nhân, công chứng, xử lý vi phạm hành chính, kiểm tra, thanh tra hành chính.
– Dịch vụ hành chính công là hoạt động không nhằm mục tiêu lợi nhuận: dịch vụ hành chính công mang tính chất phục vụ người dân và xã hội nên không hướng đến lợi nhuận. Tuy nhiên, trong điều kiện khả năng cung cấp của nhà nước, một số dịch vụ hành chính công có thể thu lệ phí nhằm tạo sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ và người không sử dụng dịch vụ chứ không mang tính chất bù đắp hao phí lao động cho chủ thể cung cấp dịch vụ.
3. Cung ứng dịch vụ công đáp ứng yêu cầu quản trị nhà nước
Một là, xác định vai trò của Nhà nước về dịch vụ công.
Các dịch vụ công thiết yếu, cơ bản cho xã hội là quyền và lợi ích cơ bản của mỗi công dân và tổ chức mà Nhà nước có vai trò bảo đảm về số lượng và chất lượng dịch vụ công cung ứng cho xã hội, các loại dịch vụ công sẽ càng đa dạng và phong phú. Nhà nước bảo đảm cho mọi người dân có cơ hội tiếp cận ngang nhau đến các dịch vụ công.
Trách nhiệm chính của Nhà nước trong quản lý cung cấp dịch vụ công:
(1) Xây dựng và triển khai khuôn khổ thể chế. Nhà nước thiết lập hành lang pháp lý cho cung cấp dịch vụ công dựa trên dựa trên nhu cầu của xã hội nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể của nhà nước.
(2) Bảo đảm nguồn lực cung cấp dịch vụ công thiết yếu và một phần các dịch vụ cơ bản. Nhà nước có vai trò như là nhà cung cấp dịch vụ công trực tiếp đối với các dịch vụ công thiết yếu và đảm bảo nguồn lực để cung cấp một phần các dịch vụ công cơ bản thông qua các cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu.
(3) Xây dựng và thực thi chính sách bảo đảm cung cấp dịch vụ công. Tăng cường huy động các nguồn lực của xã hội tham gia bảo đảm cung ứng dịch vụ công, đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ công, trong đó đặc biệt là tăng cường hình thức hợp tác công tư (PPP) trong cung ứng dịch vụ công.
(4) Kiểm tra, thanh tra, giám sát mức độ, chất lượng cung cấp dịch vụ công.
Chính phủ, chính quyền địa phương thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát việc tuân thủ luật pháp của các nhà cung ứng dịch vụ công, nhằm bảo đảm sự hỗ trợ của Nhà nước được đúng nhóm mục tiêu một cách có hiệu quả, đồng thời, bảo đảm việc cung cấp đạt được số lượng và chất lượng dịch vụ công như mong muốn.
(5) Xác định phạm vi vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong cung cấp dịch vụ công. Xác định rõ phạm vi dịch vụ công thiết yếu mà Nhà nước cần trực tiếp cung cấp; một số dịch vụ khó có thể xác định được các đặc tính ban đầu. Những dịch vụ công khó thực hiện mà tư nhân không muốn tham gia hoặc không đủ khả năng để tham gia do thực hiện theo cơ chế thị trường thì Nhà nước phải trực tiếp đứng ra cung cấp để quản lý.
Trên cơ sở những nguyên tắc chung nêu trên, mỗi bộ ngành, lĩnh vực, địa phương cần xác định rõ những dịch vụ công thiết yếu nào sẽ do Nhà nước trực tiếp cung ứng, những dịch vụ công nào các chủ thể khác cung ứng.
(6) Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng. Để thực hiện điều này, Chính phủ và các cơ quan quản lý cần thiết lập các quy định và xây dựng, thực thi các chính sách mở, không phân biệt đối xử và minh bạch. Các quy định này cần bảo đảm rằng không có ưu đãi đặc biệt nào được ban cho một số nhà cung cấp và tất cả các bên đều có cơ hội công bằng để tham gia vào thị trường và cung cấp dịch vụ. Đồng thời, kiểm soát và giám sát thị trường để bảo đảm không có hành vi không công bằng hoặc cạnh tranh không lành mạnh xảy ra.
Hai là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, thanh tra và giám sát.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần tập trung vào công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát chất lượng cung cấp dịch vụ công, sự tuân thủ các quy định của các nhà cung cấp dịch vụ công. Hành vi vi phạm phải được xử lý một cách kịp thời và nghiêm ngặt với các chế tài phù hợp, nhằm ngăn cản việc không tuân thủ trong tương lai.
Các bộ, ngành và chính quyền địa phương cấp tỉnh có thể tính đến phương án thành lập các cơ quan giám sát độc lập, chuyên trách có trách nhiệm theo dõi và đánh giá hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ công, bảo đảm tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn chất lượng.
Phát triển các hệ thống và chỉ tiêu đánh giá thực thi để đo lường và đánh giá chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ công, từ đó giúp cải thiện quản lý và cung cấp dịch vụ. Hệ thống và các chỉ tiêu đánh giá thực thi cần bao quát các mặt của đơn vị cung cấp dịch vụ công: từ các khía cạnh về tài chính, định hướng khách hàng đến quy trình nội bộ, học hỏi và phát triển.
Tăng cường sự giám sát, đánh giá của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức đại diện cho người sử dụng dịch vụ công và xã hội đối với dịch vụ công.
Xây dựng mối quan hệ đối tác giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức nghề nghiệp để họ có thể đóng góp ý kiến, kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn vào quá trình cung cấp dịch vụ công. Hỗ trợ họ trong việc tham gia vào việc đề xuất chính sách và thực hiện các hoạt động giám sát.
Ba là, tăng cường chuyển đổi số trong cung ứng dịch vụ công. Đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc triển khai, xây dựng phát triển chính phủ điện tử. Song song với việc xây dựng các thể chế, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai; nâng cao hiệu quả công tác truyền thông, nhận thức về chính phủ điện tử, kinh tế số, hạ tầng số thông qua việc triển khai chương trình truyền thông.
Tăng cường mức độ tự chủ đối với đơn vị sự nghiệnghiệp: từng bước tăng mức độ tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp công và chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công đủ điều kiện sang công ty cổ phần; chuyển cơ chế cấp kinh phí NSNN cho đơn vị sự nghiệp công từ đầu vào sang cấp kinh phí theo đầu ra; tính giá dịch vụ sự nghiệp công và điều chỉnh mức phí của các đơn vị sự nghiệp công; cơ quan chủ quản cần giảm bớt sự can thiệp trực tiếp, tập trung thực hiện chức năng quản lý đối với đơn vị sự nghiệp công.
Bốn là, hoàn thiện chính sách đẩy mạnh quá trình xã hội hóa dịch vụ công. Xã hội hoá dịch vụ công không đơn thuẩn chỉ là huy động nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính của xã hội; Hoàn thiện các quy định pháp luật về xã hội hóa cung ứng đơn vị sự nghiệp công
Bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công đáp ứng yêu cầu đổi mới của hoạt động đơn vị sự nghiệp công. Bổ sung các quy định về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, liên doanh, liên kết, về việc sử dụng thiết bị kỹ thuật cao tại các đơn vị sự nghiệp công, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công thông qua việc chủ động đầu tư hạ tầng thiết bị, đa dạng hóa và chuyên sâu các loại hình dịch vụ.
Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các đơn vị sự nghiệp công chuyển đổi cơ chế hoạt động thông qua việc tiếp cận vay vốn, hỗ trợ lãi suất để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dịch vụ.
Năm là, thúc đẩy phát triển cơ sở ngoài công lập cung ứng dịch vụ sự nghiệp công. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách đẩy mạnh xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; phù hợp với bản chất, loại hình điều kiện của từng lĩnh vực; khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức ngoài Nhà nước tham gia cung ứng dịch vụ công ích giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; đồng thời, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công. Thực hiện bình đẳng theo pháp luật giữa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động cung ứng dịch vụ công.
Sáu là, đối với doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Các doanh nghiệp hay tổ chức xã hội được nhận chuyển giao một dịch vụ hành chính công hay một nhiệm vụ, công đoạn dịch vụ hành chính công cần có các điều kiện như sau: (1) Là doanh nghiệp, tổ chức xã hội có uy tín, có quá trình và thành tích hoạt động tốt được Nhà nước và xã hội thừa nhận; (2) Có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực phù hợp với nhiệm vụ được chuyển giao; (3) có tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động tự chủ, năng động; (4) Có khả năng lựa chọn được nhân lực đủ trình độ, đạo đức và kinh nghiệm cần thiết để đảm đương nhiệm vụ được chuyển giao; (5) Có sơ sở vật chất và trang thiết bị thích hợp với nhiệm vụ được chuyển giao; (6) Có khả năng tự đánh giá hiệu quả hoạt động của tổ chức và nhân viên dựa trên kết quả; (7) Bảo đảm chất lượng dịch vụ công được cung ứng theo đúng các quy định của Nhà nước về thời gian, về chất lượng và thái độ phục vụ.
Bảy là, đối với người thụ hưởng sản phẩm dịch vụ công. Tổ chức và cá nhân là người được hưởng lợi sản phẩm dịch vụ công theo quy định của Nhà nước, do vậy họ phải đáp ứng các quy định hiện hành về nghĩa vụ và quyền lợi. Người thụ hưởng có trách nhiệm phản ánh tình hình cung ứng dịch vụ công của tổ chức về mặt được và chưa được cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Phát huy dân chủ, tập trung, với ý thức xây dựng và thượng tôn pháp luật.
4. Kết luận
Trên cơ sở khái quát về quản trị nhà nước, dịch vụ công và vai trò của dịch vụ công trong quản trị nhà nước thiết thực hiệu quả. Dịch vụ công, cung ứng dịch vụ công đã mang lại kết quả to lớn các lĩnh vực dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công và dịch vụ công ích đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người thụ hưởng cần phát huy kết quả đạt được; đồng thời, khắc phục những hạn chế và bất cập. Trên cơ sở quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước tiến hành nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao vai trò, trách nhiệm của Chính phủ và chính quyền địa phương trong bảo đảm dịch vụ công, đáp ứng yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/92019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3. Bộ Nội vụ (2022). Bối cảnh mới của đất nước và yêu cầu xây dựng, hoàn thiện nền quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Đề tài khoa học cấp bộ 2022.
4. Nguyễn Bá Chiến (2021). Bối cảnh mới của đất nước và yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Đề tài khoa học cấp bộ.
5. Chính phủ (2021). Quyết định số 492/QĐ-TTg ngày 15/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030.
6. Chính phủ (2021). Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18/10/ 2021 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.
7. Học viện Hành chính quốc gia, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu và Viện Kinh tế Việt Nam (2019). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với quản trị nhà nước. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
8. Lê Chi Mai (2007). Cải cách dịch vụ hành chính công. H. NXB Lý luận chính trị.
9. Lê Anh Tuấn (2021). Đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ đáp ứng yêu cầu đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả. Đề tài khoa học cấp bộ.