Vận dụng sáng tạo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Đinh Thị Hạnh Trang
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tư tưởng “trọng dân” theo chân lý “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh1. Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nội dung cơ bản, quan trọng và xuyên suốt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người. Việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng “trọng dân” của Người trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì Nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra2. Bài viết góp phần khẳng định quan điểm và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì Nhân dân theo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ khoá: Tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống pháp luật, vận dụng sáng tạo, xã hội chủ nghĩa, quản lý nhà nước.

1. Kết quả đạt được trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì Nhân dân theo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hiến pháp năm 2013 kế thừa các thành tựu lập pháp của giai đoạn trước, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Theo đó, định hướng xây dựng pháp luật trong các văn kiện của Đảng, Quốc hội đã tập trung xem xét và thông qua nhiều bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về lĩnh vực tổ chức bộ máy nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền con người, quyền công dân; bảo đảm việc làm, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; chủ động tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế.

Cụ thể, trước bối cảnh diễn biến phức tạp của đại dịch Covid-19 thời gian qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã rất chủ động trong xây dựng thể chế, kịp thời khởi xướng và xem xét thông qua các nghị quyết, tạo cơ sở pháp lý để Chính phủ, chính quyền địa phương áp dụng các biện pháp linh hoạt, quyết liệt, hiệu quả trong phòng, chống dịch bệnh và bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm đời sống của Nhân dân, từng bước tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, phục hồi nền kinh tế, không để người dân nào bị bỏ lại phía sau, đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết.

Kết quả hoạt động lập pháp của Quốc hội đã góp phần quan trọng trong việc tạo lập hệ thống pháp luật cơ bản đầy đủ, ổn định, chất lượng, đồng bộ, thống nhất, với vị trí cao nhất là Hiến pháp, vai trò trung tâm của các đạo luật. Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối, chủ trương của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; đã tạo nền tảng pháp lý bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư, phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội của đất nước, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp và ngày càng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân; điều chỉnh hiệu quả, toàn diện các lĩnh vực đời sống kinh tế – xã hội, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ qua kết quả tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị và tổng kết công tác nhiệm kỳ của Quốc hội, Chính phủ.

Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục đổi mới, sắp xếp tinh gọn gắn với tinh giản biên chế, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức, chế độ công vụ được hoàn thiện góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ phẩm chất, năng lực phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước.

Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, thi hành án, bổ trợ tư pháp được hoàn thiện góp phần tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, liêm chính, bảo đảm công lý và sự tôn nghiêm của pháp luật, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Pháp luật về phòng, chống tham nhũng ngày càng được bổ sung, hoàn thiện.

Những kết quả đạt được nêu trên trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đã tạo lập nền tảng chính trị, pháp lý cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước, là một trong những yếu tố quan trọng mang tính quyết định giúp đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử về phát triển kinh tế – xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần thực hiện mục tiêu để đưa nước ta cơ bản sớm trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh nhiều kết quả đã đạt được, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì Nhân dân theo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn một số hạn chế3.

Thứ nhất, hệ thống pháp luật tuy đã bao quát, toàn diện, song trong từng lĩnh vực cụ thể vẫn có những chế định chưa thực sự đầy đủ, chưa được cập nhật để kịp thời đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan; vẫn còn có định hướng đã được nêu trong các văn kiện của Đảng, quy định của Hiến pháp nhưng chưa được thể chế hóa đầy đủ, kịp thời; tính đồng bộ, thống nhất và khả thi của một số quy định chưa cao; chưa khắc phục được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong hệ thống pháp luật; khả năng thích ứng của một số quy định trước những biến chuyển nhanh chóng của thực tiễn còn hạn chế; một số quy định bất cập, gây kìm hãm, cản trở sự phát triển nhưng chậm được nghiên cứu sửa đổi, tháo gỡ.

Thứ hai, vẫn còn văn bản chính sách điều chỉnh trong một số lĩnh vực thiếu tính ổn định, tính dự báo chưa cao nên tần suất sửa đổi tương đối nhiều; việc cho phép một luật sửa nhiều luật tuy giúp tiết kiệm về thời gian, đơn giản về thủ tục nhưng dẫn đến khó khăn cho việc theo dõi, giám sát và thi hành pháp luật. Quy định trong một số luật còn mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể để áp dụng được ngay; ngược lại, một số quy định điều chỉnh các vấn đề chưa đủ rõ, mới, chưa ổn định nhưng lại quy định quá cụ thể dẫn đến nhanh bị lạc hậu, khó sửa đổi kịp thời khi có bất cập. Một số quy định còn chưa rõ ràng, dẫn tới việc hiểu và áp dụng không thống nhất.

Thứ ba, thể chế văn hóa, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao. Pháp luật về giáo dục và đào tạo còn có sự lúng túng trong thể chế hoá chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo. Thể chế, chính sách về khoa học và công nghệ còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế – xã hội; mức độ chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư còn thấp.

Chính sách về phát triển ứng dụng khoa học – công nghệ còn có điểm hạn chế; thiếu thể chế hiệu quả về tài chính, chuyển giao, ứng dụng, phát triển khoa học và công nghệ; chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu, đào tạo với sản xuất, kinh doanh; chưa có chính sách hợp lý về vay vốn, thuế, hỗ trợ phát triển, tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Khung khổ pháp lý để xây dựng nền công nghiệp công nghệ thông tin, công nghệ số bước đầu triển khai nhưng chưa theo kịp với yêu cầu của thực tiễn. Pháp luật về tài nguyên, môi trường còn một số bất cập, nhất là các quy định liên quan đến quản lý, sử dụng tài nguyên, đấu giá quyền khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ tư, pháp luật về an sinh xã hội bước đầu mở rộng phạm vi bao phủ, nhưng mức trợ cấp còn thấp, chưa theo kịp với nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội ngày càng đa dạng, phong phú và tăng nhanh đối tượng hưởng. Pháp luật về dạy nghề chưa bảo đảm gắn sản xuất với thị trường lao động và nhu cầu việc làm của người lao động. Pháp luật về y tế, chăm sóc sức khỏe, đời sống nhân dân, bảo hiểm, việc làm chưa được hoàn thiện đáp ứng đầy đủ yêu cầu thực tế.

Những hạn chế trên có nguyên nhân chủ quan và khách quan, là: tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; nước ta đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng nên tình hình thực tiễn, các quan hệ kinh tế, xã hội biến chuyển nhanh, phát sinh nhiều vấn đề mới, khó dự báo, chưa có tiền lệ. Một số giải pháp đổi mới trong quy trình xây dựng, ban hành luật chưa phát huy đầy đủ hiệu quả như việc đánh giá tác động của chính sách; cơ chế, chính sách chưa đủ sức thu hút sự tham gia tích cực của các tổ chức, cá nhân, chuyên gia, nhà khoa học và Nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật. Nguồn lực tài chính dành cho công tác xây dựng pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Công tác đào tạo nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật chưa hoàn toàn gắn với nhu cầu thực tiễn.

Kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật chưa nghiêm; hoạt động của một số ban soạn thảo, tổ biên tập chưa thực sự hiệu quả, thành viên của ban, tổ còn “phó thác” cho cơ quan chủ trì soạn thảo dẫn đến chất lượng văn bản trong một số trường hợp chưa cao, chưa khắc phục triệt để tình trạng “cài cắm” lợi ích cục bộ của bộ, ngành, chưa tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; các chế tài chưa đầy đủ, xử lý chưa kiên quyết, triệt để đối với trường hợp không tuân thủ đúng quy trình; việc nâng cao trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, nhất là giữa cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra vẫn còn có những hạn chế, chưa phát huy hết khả năng, vai trò của từng cơ quan; việc rà soát, sơ kết, tổng kết thi hành văn bản pháp luật chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả.

Cơ chế bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của người dân, xã hội đối với công tác xây dựng pháp luật chưa được phát huy đầy đủ, hiệu quả. Một số cơ quan chưa coi trọng đúng mức việc lấy ý kiến, xử lý và giải trình đầy đủ đối với các ý kiến góp ý hoặc chưa có phương pháp thực hiện phù hợp. Từ phía xã hội, các doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức khác và công dân cũng chưa ý thức đầy đủ về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi để tham gia có hiệu quả vào công tác này.

Tổ chức và hoạt động của Quốc hội tuy đã không ngừng được đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả, song vẫn chưa thực sự đáp ứng đầy đủ yêu cầu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong tình hình mới. Phần lớn đại biểu Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm; công tác tập huấn, bồi dưỡng, tăng cường năng lực cho đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu hoạt động chuyên trách còn hạn chế; còn có sự “dễ dãi”, nể nang, thiếu kiên quyết trong thảo luận, cho ý kiến về các dự án luật, dự thảo nghị quyết, nhất là về những vấn đề lớn, phức tạp, còn ý kiến khác nhau.

Đội ngũ công chức làm công tác xây dựng pháp luật của Chính phủ, các bộ, ngành, tổ chức và bộ phận trực tiếp tham mưu, giúp việc trong hoạt động lập pháp của Quốc hội chưa được quan tâm, đầu tư thỏa đáng; trình độ, kỹ năng lập pháp chưa đồng đều, chưa mạnh về chất lượng, tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa chưa cao. Chưa có cơ chế để thu hút các chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực, kinh nghiệm về làm công tác xây dựng pháp luật. Ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin trong đổi mới quy trình lập pháp chưa phát huy hiệu quả rõ rệt4.

3. Quan điểm và giải pháp

(1) Quan điểm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì Nhân dân theo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Một là, bảo đảm công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng; thể chế hóa kịp thời, đúng đắn và đầy đủ các chủ trương của Đảng; hướng đến mục tiêu vì con người, vì Nhân dân, nhân đạo, nhân văn; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp và bảo đảm ngày càng tốt hơn dân chủ, công bằng, trật tự, kỷ cương xã hội.

Hai là, tạo lập đầy đủ hành lang pháp lý để bảo đảm tổ chức và hoạt động của Nhà nước trong khung khổ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, thực sự thuộc về Nhân dân, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; xác lập đầy đủ về phương diện luật pháp, mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân dựa trên nguyên tắc cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, công dân không được làm những điều pháp luật cấm; tăng cường phản biện xã hội và hoàn thiện cơ chế giám sát của Nhân dân đối với việc thực hiện quyền lực nhà nước; xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật đầy đủ, phù hợp, hiệu quả.

Ba là, bảo đảm dân chủ thực chất và thu hút sự tham gia rộng rãi của Nhân dân, chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình xây dựng pháp luật; không bị tác động bởi các quan điểm, tư tưởng lệch lạc; đẩy nhanh tốc độ để sớm xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, bảo đảm chất lượng, tính khả thi, gắn kết chặt chẽ với tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Bốn là, bảo đảm xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, đối ngoại, hội nhập quốc tế… nhằm khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Trong đó, đặc biệt ưu tiên nhiệm vụ tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh; ưu tiên xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung các đạo luật ở các lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt, có tính khả thi cao, tạo sự bứt phá về phát triển kinh tế – xã hội, tạo cơ chế thuận lợi để thí điểm những vấn đề mới, chưa có tiền lệ. Kịp thời tháo gỡ những điểm nghẽn cản trở sự phát triển; khắc phục hạn chế, vướng mắc, nhất là những vấn đề đặt ra trong phòng, chống và khắc phục hậu quả của những vấn đề an ninh phi truyền thống như đại dịch Covid-19 vừa qua.

(2) Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật vì Nhân dân theo tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Thứ nhất, bổ sung, hoàn thiện các quy định về quản lý di sản văn hóa nhằm xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế – xã hội; bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử – văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; phát huy các di sản được UNESCO công nhận; giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa tích cực trong tín ngưỡng, tôn giáo.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất bản theo hướng trong hoạt động xuất bản phải coi trọng việc phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng, đáp ứng nhu cầu đọc của Nhân dân, đồng thời phải thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, xây dựng ngành xuất bản thành một ngành kinh tế – công nghệ phát triển toàn diện, vững chắc; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để xuất bản hoạt động có hiệu quả trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Di sản văn hoá, Luật Xuất bản.

Thứ hai, tiếp tục cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do báo chí, xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí; phát triển và quản lý hệ thống báo chí, phương án phát triển cơ sở báo chí trong quy hoạch phát triển mạng lưới cơ sở báo chí bảo đảm yêu cầu, điều kiện thực tiễn và theo giai đoạn phù hợp. Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Báo chí.

Thứ ba, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế; mở rộng bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; hoàn thiện các quy định về đóng – hưởng bảo hiểm xã hội, bảo đảm các nguyên tắc công bằng, bình đẳng, chia sẻ và bền vững; hoàn thiện chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý Quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm yêu cầu cân đối và tăng trưởng của Quỹ bảo hiểm xã hội; có giải pháp ngăn chặn tình trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người lao động. Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Bảo hiểm xã hội.

Thứ tư, nghiên cứu xây dựng khung khổ pháp lý cho việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ Nhân dân khắc phục khó khăn, thiên tai, dịch bệnh, tránh các hành vi lợi dụng vi phạm pháp luật; đồng thời, giúp khuyến khích sự chung tay đóng góp của cộng đồng cho các hoạt động thiện nguyện, bảo đảm tính hợp pháp, công khai, minh bạch và giúp giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Nghiên cứu, xây dựng dự án Luật điều chỉnh về hoạt động từ thiện, nhân đạo.

Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ Nhân dân, khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm y tế, phòng bệnh, trang thiết bị y tế, y dược cổ truyền, an toàn thực phẩm nhằm bảo đảm quyền được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe một cách an toàn, thuận lợi của tất cả người dân, phù hợp với tình hình mới; có chính sách ưu tiên cho Nhân dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; phòng ngừa và ứng phó có hiệu quả với dịch bệnh có quy mô, phạm vi tác động, ảnh hưởng lớn, tăng cường công tác y tế dự phòng; nâng cao sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống của người Việt Nam; đa dạng hóa các hình thức hợp tác công tư – đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo yêu cầu, phát triển mô hình bác sĩ gia đình; hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp dược.

Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Luật Bảo hiểm y tế; Luật An toàn thực phẩm; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Nghiên cứu, xây dựng dự án Luật điều chỉnh về phòng bệnh hoặc phòng bệnh và nâng cao sức khỏe; dự án Luật điều chỉnh về trang thiết bị y tế.

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với hoạt động chữ thập đỏ để tiếp tục nâng cao vai trò nòng cốt, cầu nối của Hội Chữ thập đỏ Việt Nam trong các hoạt động nhân đạo để các hoạt động nhân đạo do Hội Chữ thập đỏ Việt Nam tiến hành ngày càng có hiệu quả, góp phần thực hiện các chính sách xã hội, nhân đạo của Đảng và Nhà nước, động viên các tầng lớp Nhân dân và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế chăm lo cho người nghèo, Nhân dân các vùng bị thiên tai, thảm họa, nạn nhân chiến tranh, nạn nhân chất độc da cam, người khuyết tật, người già cô đơn và những người khó khăn khác trong xã hội. Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Hoạt động chữ thập đỏ.

Thứ bảy, hoàn thiện pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại, không ngừng thúc đẩy sự bình đẳng và đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân; thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng cơ chế pháp lý để thể chế hóa và bảo đảm thực hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân tộc nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế cùng với bảo đảm an sinh xã hội cho đồng bào vùng các dân tộc thiểu số, đồng thời có chính sách cụ thể phát triển văn hóa đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ tám, hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân5; trong đó, tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, thực hành đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Xây dựng, ban hành Luật Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn và thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung. Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân và các luật có liên quan6.

Thứ chín, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật để xác định rõ hơn vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội làm nòng cốt để Nhân dân làm chủ” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên làm tốt hơn nữa vai trò là nòng cốt chính trị, có trách nhiệm trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động Nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, xây dựng đồng thuận xã hội để góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính trị của đất nước trong giai đoạn mới.

Xây dựng cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở; rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ; sắp xếp, tinh gọn lại tổ chức bộ máy, gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động ở các cấp phù hợp với việc sắp xếp các đơn vị hành chính và mô hình chính quyền đô thị; thiết lập đồng bộ cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội.

Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN ngày 15/6/2017 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định chi tiết các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các luật, nghị quyết khác có liên quan. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp trong hoạt động phản biện xã hội đối với dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; chú trọng bản lĩnh, ý thức chính trị, không bị chi phối bởi các nhóm lợi ích trong quá trình giám sát, phản biện xã hội; tăng cường thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn sâu, công tâm, khách quan, vì lợi ích quốc gia, dân tộc tham gia trong công tác xây dựng pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm thời gian, phương thức phù hợp, hiệu quả để lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự thảo văn bản và Nhân dân; bảo đảm tiếp thu, giải trình nghiêm túc, đầy đủ đối với các ý kiến tham gia trong quá trình chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo văn bản; xây dựng, hoàn thiện cơ chế đánh giá hiệu quả thi hành luật, cơ chế tiếp nhận, xử lý thông tin phản hồi của công dân, doanh nghiệp đối với công tác lập pháp.

Thứ mười, tiếp tục rà soát, hoàn thiện các cơ chế, chính sách dân tộc, bảo đảm các dân tộc bình đẳng; tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù chăm lo giáo dục, đào tạo, y tế, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới7; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số so với bình quân chung của cả nước, góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.

Nghiên cứu, xây dựng dự thảo Nghị quyết điều chỉnh về danh mục thành phần, tên gọi các dân tộc Việt Nam, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện pháp luật để cụ thể hóa đầy đủ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Nghiên cứu, rà soát để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Quốc tịch và các văn bản pháp luật có liên quan.

Thứ mười một, tiếp tục đổi mới hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội theo hướng đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao8; trong đó, cần tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp (mở rộng dân chủ, bảo đảm công khai, dân chủ trong tiếp nhận, phản hồi các ý kiến đóng góp, đổi mới mạnh mẽ cách thức phương thức lấy ý kiến, huy động sự tham vấn của các chuyên gia, nhà khoa học, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp trong hoạt động thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội; nghiên cứu xây dựng cơ chế pháp luật để điều chỉnh hoạt động vận động chính sách).

Hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, đánh giá, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng Nhân dân bầu hoặc phê chuẩn; đồng thời, tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan tham mưu, giúp việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Thứ mười hai, tăng cường đầu tư, đổi mới cơ chế phân bổ và sử dụng hiệu quả kinh phí cho công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm đủ nguồn lực thực hiện trong các khâu của toàn bộ quy trình lập pháp; xác định rõ kinh phí bảo đảm xây dựng và hoàn thiện pháp luật là đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng pháp lý. Kinh phí xây dựng pháp luật phải đủ để đáp ứng một cách thực chất các yêu cầu đổi mới quy trình và nâng cao chất lượng của các chính sách, dự án, dự thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết, nhất là việc điều tra, khảo sát thực tế, đánh giá tác động kinh tế – xã hội của chính sách, pháp luật và việc tham vấn, lấy ý kiến của Nhân dân.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 51.
2. Tư tưởng “trọng dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài học trong xây dựng chính quyền vì nhân dân phục vụ hiện nay. https://hochiminh.vn/tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/nghien-cuu-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh, ngày 28/9/2023.
3, 4. Đảng đoàn Quốc hội (2021). Đề án số 292-ĐA/ĐĐQH15 ngày 20/10/2021 của Đảng đoàn Quốc hội định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội (khóa XV) (2021-2026), tr. 9-12, 12-14.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 336.
6. Hội đồng bầu cử quốc gia (2021). Báo cáo số 783/BC-HĐBCQG ngày 14/7/2021 của Hội đồng bầu cử quốc gia tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội (khóa XV) và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
7, 8. Ban Chấp hành Trung ương (2021). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 252, 175.