Tăng cường quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm an sinh xã hội bền vững ở nước ta hiện nay

ThS. Nguyễn Thế Linh
Bảo hiểm Xã hội quận Đống Đa, thành phố Hà Nội

(Quanlynhanuoc.vn) – Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm an sinh xã hội quốc gia, do đó, các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ về bảo hiểm xã hội, xử lý các vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, cơ bản đã được bổ sung đầy đủ, tạo thuận lợi cho người dân được dễ dàng tiếp cận và thụ hưởng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn những hạn chế, tồn tại, dẫn đến tình trạng lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội với nhiều hình thức, mức độ khác nhau; việc trốn tránh trách nhiệm của các bên tham gia; chính sách bảo hiểm xã hội vẫn chưa hấp dẫn, chưa khuyến khích được đông đảo người dân tham gia. Do đó, đòi hỏi việc cần phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội để bảo đảm quyền lợi cho người lao động, người tham gia bảo hiểm xã hội; đồng thời, bảo đảm ổn định tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội.

Từ khóa: An sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, quản lý nhà nước, chính sách, pháp luật, phát triển bền vững.

1. Đặt vấn đề

Để xây dựng và thực hiện được chính sách bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm an sinh xã hội bền vững, thì việc phát huy vai trò quản lý của Nhà nước là rất cần thiết. Nhà nước muốn quản lý, xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội nhằm bảo đảm an sinh xã hội bền vững cần dựa trên việc thay đổi chức năng Nhà nước từ “cai trị” sang phục vụ. Có như vậy, chính sách bảo hiểm xã hội mới hấp dẫn, nhiều người dân tham gia, ổn định quỹ tài chính, góp phần bảo đảm an sinh xã hội bền vững.

Ngoài ra, để thể chế bảo hiểm xã hội dần trở thành yếu tố bảo đảm quyết định đến an sinh xã hội bền vững thì việc quan trọng là cần phân biệt rõ vai trò quản lý của Nhà nước và vai trò khách quan của thị trường, mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường phải thường xuyên được giải quyết tốt trong tổng thể mối quan hệ giữa Nhà nước – thị trường – xã hội nhằm bảo đảm quyền an sinh xã hội của người dân. Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong quản lý và sử dụng cơ chế thị trường để điều hành chính sách bảo hiểm xã hội, từ đó phát huy tinh thần chủ động của người dân tiếp cận mạng lưới an sinh, tiến tới bao phủ trong cộng đồng và xã hội. Khi an sinh xã hội bền vững sẽ giúp Nhà nước đạt các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong việc góp phần xây dựng xã hội phát triển.

2. Thực tiễn công tác quản lý bảo hiểm xã hội hiện nay

Thời gian qua, chính sách bảo hiểm xã hội của Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện, công tác tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội liên tục được tăng cường, giúp cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội được chặt chẽ, khiến người tham gia bảo hiểm xã hội có ý thức chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội và được bảo đảm quyền lợi tốt hơn. Qua thực tế thì việc tăng cường công tác tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội đã có những tác động nhằm hướng tới mở rộng phạm vi bao phủ, tạo cơ hội cho mọi người dân trong việc tiếp cận, tham gia, thụ hưởng chính sách. 

Một là, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo.

Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội đã từng bước được nâng cao trên các phương diện, như: thanh tra đối với đơn vị sử dụng lao động, thanh tra cơ quan thực hiện chính sách, thanh tra tài chính của bảo hiểm xã hội. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 đã quy định rõ về khiếu nại tố cáo, xử lý vi phạm. Với những quy định này, lần đầu tiên Luật Bảo hiểm xã hội giao quyền xử phạt hành chính cho cơ quan bảo hiểm xã hội, điều này đã tăng tính răn đe và kịp thời xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 mới quy định về thanh tra thu bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội mà chưa trao quyền thanh tra toàn diện đến các lĩnh vực thuộc lĩnh vực cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

Nhằm ngăn chặn tình trạng vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2025) quy định trách nhiệm của các cơ quan trong xác định và quản lý đối tượng thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội; đồng thời, đã sửa đổi, bổ sung nhiều biện pháp xử lý, chế tài xử lý tình trạng chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội.

Các cơ quan chức năng đã đánh giá tình trạng vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội ngày càng gia tăng của người sử dụng lao động và người lao động. Mặc dù cơ quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra đã thường xuyên thực hiện nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra xử lý, kiến nghị khắc phục, nhưng việc cố tình vi phạm vẫn diễn ra thường xuyên và chưa có chiều hướng suy giảm ở các doanh nghiệp. Việc lách luật, hợp thức hóa hồ sơ đối với công tác thu bảo hiểm xã hội đã khiến số vụ việc bị xử lý mặc dù có giảm, nhưng nó thể hiện hình thức vi phạm ngày một tinh vi với tần suất cao.

Trong lĩnh vực chính sách bảo hiểm xã hội thì tình trạng trục lợi về chính sách bảo hiểm xã hội ngày càng phổ biến, nhất là các chế độ ngắn hạn, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng chi trả và độ bền vững của quỹ bảo hiểm xã hội. Để xảy ra các vi phạm này chủ yếu là do nhận thức tuân thủ pháp luật về bảo hiểm xã hội của cả người lao động và người sử dụng lao động chưa cao; chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe; công tác xử lý vi phạm ở một số nơi chưa nghiêm túc, công tác khởi kiện chưa được thực hiện do nhiều văn bản pháp luật chồng chéo.

Hiện nay, để thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm xã hội, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bên cạnh việc đã có nhiều văn bản đôn đốc, tuyên truyền, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm pháp luật về bảo hiểm xã hội còn thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện xử lý vi phạm, qua đó, tăng cường tính tuân thủ pháp luật, hạn chế tình trạng trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội, từng bước góp phần bảo vệ quyền lợi của người lao động.

Nhờ tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra mà chính sách bảo hiểm xã hội không ngừng được phát triển cả về quy mô và số lượng; cả về đối tượng tham gia và đối tượng thụ hưởng. Tình trạng trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội dần được kiểm soát; quyền lợi cho người tham gia được bảo đảm; quỹ bảo hiểm xã hội bảo đảm an toàn. Đồng thời, qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện ra nhiều sai phạm, thu hồi số tiền lớn về quỹ bảo hiểm xã hội.

Công tác thanh tra về bảo hiểm xã hội đã được tiến hành cả đối với hệ thống cơ quan bảo hiểm xã hội và cả các đơn vị sử dụng lao động. Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai đa dạng, không chỉ thực hiện theo hình thức chuyên đề, chuyên ngành mà còn lồng ghép với các cuộc thanh tra liên ngành có liên quan. Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã phát hiện, xử lý vi phạm và kiến nghị yêu cầu các đối tượng được thanh tra, kiểm tra khắc phục sai phạm, thiếu sót.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội nhìn chung được thực hiện theo đúng quy định, đã phát hiện ra các sai phạm và hạn chế được tình trạng tồn đọng, vượt cấp. Hình thức khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội chủ yếu là đơn thư đề nghị, kiến nghị, thắc mắc về chính sách bảo hiểm xã hội.

Những khiếu nại, tố cáo nghiêm trọng thường xảy ra khi người lao động không được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội do không được đóng bảo hiểm xã hội vì nợ đọng, bỏ trốn của người sử dụng lao động. Việc sắp xếp bố trí lịch tiếp dân, hòm thư khiếu nại tố cáo tại các cơ quan bảo hiểm xã hội hay trên cổng dịch vụ công quốc gia, của ngành đã dần giải đáp các thắc mắc của người dân. Cũng từ thực tiễn, đã giúp các cơ quan chức năng xây dựng, hoàn chỉnh và ban hành Luật Bảo hiểm xã hội và sửa đổi, điều chỉnh một số nội dung không còn phù hợp thực tiễn của một số văn bản quy phạm pháp luật khác về bảo hiểm xã hội, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong chính sách. Từ việc minh bạch trong công tác quản lý điều hành chính sách bảo hiểm xã hội, người dân khiếu nại tố cáo giảm, chỉ số hài lòng của người tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng tăng cao.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội vẫn còn có hạn chế. Đó là, công tác chủ động phối hợp giữa các ngành chức năng trong việc xử lý vi phạm và đề xuất các chế tài xử phạt chưa cao; nhiều ngành còn thờ ơ với chính sách bảo hiểm xã hội. Còn tình trạng đơn vị sử dụng lao động coi thường các biện pháp xử lý vi phạm của pháp luật, thể hiện qua việc không chấp hành và không thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra chiếm tỉ lệ cao. Công tác thanh tra xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền vẫn bị động và không kịp thời; Bộ Luật Hình sựLuật Bảo hiểm xã hội có quy định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, tuy nhiên, trong thực tế việc áp dụng để xử lý vẫn chưa nghiêm.

Hiện nay, do số lượng đơn vị nợ bảo hiểm xã hội lớn, trong khi đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm xã hội còn thiếu và yếu dẫn đến không kiểm soát hết được các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Tính cưỡng chế sau thanh tra của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội nói chung và chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội nói riêng còn thấp. Tình trạng khắc phục các vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc còn chậm, chưa triệt để; còn để xảy ra hiện tượng “nhờn” luật của người sử dụng lao động đối với việc chấp hành các quyết định xử lý vi phạm. Việc này xảy ra do tính thiếu cương quyết của cơ quan thực hiện xử lý vi phạm và sự thiếu đồng bộ trong việc thu hồi số tiền chậm đóng; xử phạt hành chính do các ngân hàng không phối hợp hoặc đơn vị sử dụng lao động che giấu thông tin tài khoản ngân hàng…

Hai là, công tác hiện đại hóa quản lý bảo hiểm xã hội.

Để công tác quản lý thực hiện chính sách về bảo hiểm xã hội được tốt, việc ứng dụng công nghệ thông tin là ưu tiên hàng đầu. Nhà nước khuyến khích đầu tư phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến để quản lý, thực hiện bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội Việt Nam với đặc thù là ngành trực tiếp phục vụ người tham gia và đơn vị sử dụng lao động nên đã chủ động xác định trọng tâm của chuyển đổi số là xây dựng chính phủ số, trong đó đặc biệt là triển khai Đề án 06 của Chính phủ1.

Ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã và đang đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin của ngành theo định hướng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số, tích hợp, tập trung cấp quốc gia, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới khách hàng. Với quy trình nghiệp vụ tự động hóa mức độ cao, được vận hành bởi nguồn nhân lực công nghệ thông tin chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an sinh xã hội quốc gia, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, toàn diện hơn trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội; lưu trữ hồ sơ của người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội; từ đó, chính sách bảo hiểm xã hội được công khai minh bạch hơn. Nhân dân, người lao động, người tham gia được giám sát quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của mình cũng như quá trình quản lý của cơ quan bảo hiểm xã hội, từ đó phát hiện các tồn tại, hạn chế phải khắc phục, ngăn ngừa rủi ro xảy ra đối với an toàn quỹ bảo hiểm xã hội.

Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) đóng vai trò chiến lược trong thực hiện bảo hiểm xã hội, cho phép cải thiện chất lượng dịch vụ của các tổ chức bảo hiểm xã hội. Chính vì vậy, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chủ động, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội, cụ thể:

(1) Tập trung nâng cấp các phần mềm nghiệp vụ thu và quản lý sổ – thẻ (TST), phần mềm xét duyệt chính sách bảo hiểm xã hội (TCS) và Phần mềm Cấp mã số bảo hiểm xã hội góp phần giảm thời gian tác nghiệp, thời gian giao dịch và giảm hồ sơ bằng giấy; phần mềm TCS được kết nối với cơ sở dữ liệu thu và quản lý sổ thẻ để hỗ trợ đối soát trong giải quyết chế độ ốm đau, thai sản, góp phần đẩy nhanh quá trình giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội đối với người dân và phát hiện một số trường hợp sai phạm, có dấu hiệu trục lợi.

(2) Hoàn thiện cơ sở pháp lý và triển khai cấp số và thẻ an sinh xã hội điện tử đã bước đầu giải quyết việc đồng bộ cấp mã số an sinh xã hội cho công dân theo Quyết định số 708/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ2. Từ đó chủ động xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu điện tử về quản lý bảo hiểm xã hội. Đến nay, về cơ bản các cơ sở dữ liệu quản lý đối tượng tham gia, đối tượng thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội đã được hoàn thiện, chuẩn hóa và liên thông trên phạm vi toàn quốc và thực hiện kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên.

(3) Từng bước chia sẻ thông tin, kết nối dữ liệu giữa cơ quan bảo hiểm xã hội với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan khác, bao gồm: cơ quan thuế đã trao đổi dữ liệu về tổ chức, cá nhân trả thu nhập; với trung tâm dịch vụ việc làm trên môi trường điện tử kiểm tra, rà soát bảo đảm chi đúng đối tượng thụ hưởng; kết nối liên thông với cơ quan quản lý hộ tịch ở các địa phương.

Ba là, công tác thống kê, kế toán tài chính về bảo hiểm xã hội.

Một trong những trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội là thực hiện công tác thống kê, kế toán tài chính về bảo hiểm xã hội. Số liệu thống kê, kế toán tài chính về bảo hiểm xã hội chính xác, đầy đủ, rõ ràng sẽ tạo dựng được lòng tin của các bên tham gia bảo hiểm xã hội cũng như hỗ trợ cho cơ quan quản lý nhà nước kịp thời sửa đổi, bổ sung và hoạch định chính sách.

Mặc dù ngành bảo hiểm xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực trong xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống thống kê về bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, việc cung cấp và chia sẻ số liệu để phục vụ công tác xây dựng chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều hạn chế.

3. Một số đề xuất, kiến nghị tăng cường quản lý bảo hiểm xã hội hiện nay

Để công tác tổ chức quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội thực sự chất lượng, hiệu quả, góp phần bảo bảo an sinh xã hội bền vững ở nước ta hiện nay, cần phải tập trung vào một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, tăng cường phòng ngừa vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Nhằm giảm tình trạng các đơn vị sử dụng lao động vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội trong vấn đề nợ tiền, chậm đóng, trốn tham gia ở 2 khía cạnh số người, số tiền lương, lạm dụng, trục lợi quỹ bảo hiểm xã hội thì cần phải coi “phòng hơn chống” mới giúp cho thực hiện bảo hiểm xã hội đạt hiệu quả tốt nhất. Cần phải tập trung vào một số phương thức sau:

(1) Cần phải thường xuyên gọi điện, thông báo, đôn đốc các đơn vị nợ đóng bảo hiểm xã hội nộp tiền, theo dõi, rà soát và phân loại các đơn vị nợ để có sự kết hợp các giải pháp hợp lý, hiệu quả, thậm chí cử cán bộ xuống trực tiếp đơn vị để làm việc khi cần thiết.

(2) Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ thu hồi nợ thuộc cơ quan bảo hiểm xã hội và UBND các cấp. Chủ động tham mưu, tranh thủ sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo chính sách bảo hiểm xã hội các cấp trong triển khai chính sách bảo hiểm xã hội.

(3) Thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng các đơn vị vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, việc công khai này sẽ khiến đơn vị, doanh nghiệp sợ mất uy tín mà hạn chế vi phạm.

(4) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nội bộ, kiểm tra chéo hoạt động của cán bộ bảo hiểm xã hội tránh để cán bộ bảo hiểm xã hội tiếp tay cho sai phạm; áp dụng hình thức xử phạt thật nghiêm đối với những cán bộ vi phạm. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường thanh tra, kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động để hạn chế tình trạng cố tình vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.

(4) Tăng cường xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội, kể cả xử lý hình sự đối với các đơn vị cố tình vi phạm, tạo tính răn đe, hạn chế các hành vi vi phạm.

(5) Thực hiện khen thưởng kịp thời đối với các cá nhân, tổ chức có thành tích trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Từ đó nhân rộng các điển hình tiên tiến góp phần đẩy lùi các vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Thứ hai, tăng cường hiệu quả thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm xã hội.

Thực hiện đúng quy trình thanh tra, kiểm tra theo quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội, từ công tácxây dựng cụ thể kế hoạch thanh tra, kiểm tra hằng năm của cơ quan bảo hiểm xã hội và phối hợp thanh tra, kiểm tra liên ngành. Kiên quyết xử lý và kiến nghị xử lý thi hành các kết luận sau thanh tra, kiểm tra để tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong công tác thanh tra.

Thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp công tác thanh tra, kiểm tra nhằm nâng cao hiệu quả. Song song với đó phải kịp thời nắm bắt những hạn chế, khó khăn vướng mắc tại địa phương để có chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời; kiến nghị sửa đổi những bất cập trong cơ chế chính sách về bảo hiểm xã hội.

Thứ ba, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thanh tra.

Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra của bảo hiểm xã hội cần phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thanh tra đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, tăng cường các hoạt động trao đổi kinh nghiệm thực tế để cán bộ có cơ hội tiếp cận thực tế, bổ sung kinh nghiệm chưa có. Bố trí những cán bộ có phẩm chất, năng lực, gương mẫu, trách nhiệm vào làm công tác thanh tra, kiểm tra.

Thứ tư, kiện toàn, nâng cao hiệu quả hệ thống tổ chức bộ máy bảo hiểm xã hội các cấp.

Thực hiện quản lý nhân lực theo vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, cơ cấu hạng viên chức theo chức danh nghề nghiệp. Tổ chức tuyển dụng đủ nhân lực, đúng trình độ chuyên môn và phù hợp với nhu cầu của công việc.

Sắp xếp, bố trí công việc cho những cán bộ thực hiện nhiệm vụ có các phẩm chất, năng lực tốt vào các bộ phận trực tiếp giải quyết các công việc dễ phát sinh, đặc biệt là trực tiếp tiếp dân nhằm giải tỏa các khúc mắc của đối tượng, tạo lan tỏa hình ảnh tốt đẹp của ngành Bảo hiểm xã hội.

Phân cấp tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho thủ trưởng đơn vị trong việc sử dụng biên chế, kinh phí quản lý được giao gắn trách nhiệm với lợi ích của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong hoạt động nghiệp vụ, tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, nâng cao hiệu quả, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin và cải cách hành chính.

Tích cực cùng với các bộ ngành xây dựng cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia theo Đề án 06 của Chính phủ để có thể chia sẻ thông tin và sử dụng vào công tác nghiệp vụ quản lý của ngành, từ đó góp phần cải cách thủ tục hành chính trên dịch vụ công do liên thông về thông tin dữ liệu đối tượng tham gia, giảm bớt sự phiền hà, tốn kém chi phí, thời gian đi lại của doanh nghiệp và người dân.

Ứng dụng các phần mềm tiện ích để cung cấp thông tin về đóng hưởng bảo hiểm xã hội cho người lao động và trách nhiệm của người sử dụng lao động để họ chủ động nắm bắt thông tin của họ về bảo hiểm xã hội, qua đó tự giám sát và phát hiện các tiêu cực trong thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình quản lý điều hành để phục vụ người tham gia và phát hiện sai phạm. Bên cạnh đó, cơ quan bảo hiểm xã hội triển khai sử dụng trí tuệ nhân tạo (Chatbot) để trả lời tự động các vấn đề thường gặp trên Cổng thông tin điện tử và fanpage nhằm tăng cường tính kiểm tra của Nhân dân.

4. Kết luận

Để chính sách bảo hiểm xã hội đã từng bước khẳng định và phát huy vai trò là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, là sự bảo đảm thay thế, hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, góp phần đảm bảo chính sách an sinh xã hội bền vững, trong thời gian tới, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và người lao động cần phải tích cực, tăng cường triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo hiểm xã hội, nhất là công tác tổ chức quản lý về bảo hiểm xã hội phải được quan tâm đúng mức để chính sách bảo hiểm xã hội đạt được nhiều kết quả quan trọng như mong muốn.

Chú thích:
1. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 phê duyệt đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đối số quốc gia giai đoạn 2022 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
2. Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 708/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 phê duyệt đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội, ứng dụng công nghệ thông tin vào giải quyết chính sách an sinh xã hội đến năm 2020 và định hướng phát triển đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2018). Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về cải cách chính sách Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Tập I. H. NXB chính trị quốc gia Sự thật.
3. Quốc hội (2014). Luật Bảo hiểm năm 2014
4. Bảo đảm quỹ bảo hiểm xã hội cân đối trong dài hạn, quỹ bảo hiểm y tế cân đối hằng năm, gắn với quản lý và sử dụng hiệu quả, trách nhiệm, đúng quy định. https://www.tapchicongsan.org.vn.
5. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của cơ quan bảo hiểm xã hội cấp huyện trong điều kiện hiện nay. https://tcnn.vn/Nang-cao-hieu-qua-quan-ly-nha-nuoc-cua-co-quan-bao-hiem-xa-hoi-cap-huyen-trong-dieu-kien-hien-nay. html.
6. Ứng dụng chuyển đổi số đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/08/22/ung-dung-chuyen-doi-so-day-manh-cai-cach-thu-tuc-hanh-chinh-trong-linh-vuc-bao-hiem-xa-hoi/.