Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin trong tác phẩm: “Nhà nước và cách mạng” vào quá trình xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Thượng tá, TS. Lê Thị Hiền Lương
Trường Đại học An ninh nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” trình bày một cách toàn diện, có hệ thống học thuyết của chủ nghĩa Mác về nhà nước; bổ sung, phát triển học thuyết trên một số nội dung, khía cạnh mới, xây dựng xuất sắc lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bài viết khái quát nội dung cơ bản của tác phẩm, đúc rút những vấn đề Đảng, Nhà nước ta đã quán triệt, vận dụng vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

Từ khóa: V.I. Lênin, nhà nước, pháp quyền, xã hội chủ nghĩa.

1. Tư tưởng của V. I .Lênin về nhà nước trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”

Lênin cho rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, có quá trình ra đời, tồn tại, phát triển từ khi xã hội loài người phân hóa thành các giai cấp đối kháng: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”1.

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp dẫn đến sự ra đời của nhà nước là những mâu thuẫn giai cấp “không thể điều hòa được”, nguyên nhân bên trong của xung đột này xuất phát từ chế độ tư hữu. Sự xuất hiện và tồn tại của chế độ tư hữu dẫn đến sự phân chia thành những lực lượng đối lập nhau trước hết là về lợi ích kinh tế, từ đó dẫn đến những đối lập xã hội khác, tức là hình thành giai cấp và do đó nhà nước xuất hiện.

Kế thừa quan điểm của Ph.Ăngghen về bản chất của nhà nước, Lênin khẳng định bản chất của nhà nước là cơ quan của giai cấp thống trị, do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập để bóc lột, áp bức các giai cấp khác trong xã hội nhằm bảo vệ, thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Lênin vạch trần bộ mặt thật của nhà nước tư sản thông qua những biểu hiện của nó trong thế giới đương đại: “Nói một cách khác, nhà nước dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác, hơn nữa lại là của thiểu số đối với đa số”2.

Lênin khẳng định, việc xóa bỏ nhà nước tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản là một tất yếu của lịch sử. Quá trình đó phải được thực hiện thông qua một cuộc cách mạng xã hội, trong đó giai cấp vô sản đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong phong trào đấu tranh chống lại những “vật ký sinh” đang sống bám trên thân thể của xã hội. Như vậy, trong quan điểm của Lênin, chuyên chính vô sản là nội dung mấu chốt của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giai cấp vô sản không thể tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể quần chúng nhân dân bị áp bức nếu không giành chính quyền, bởi họ là lực lượng duy nhất thực sự triệt để cách mạng, đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, có khả năng đoàn kết tất cả những người lao động và những người bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Tuy nhiên, để hoàn thành nhiệm vụ lịch sử này, bản thân giai cấp vô sản cần phải có chính đảng của mình, thông qua chính đảng này để giáo dục, lãnh đạo và dẫn dắt toàn thể Nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Trong khi nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc thiết lập chuyên chính vô sản, Lênin chỉ rõ cách thức cho giai cấp công nhân thực hiện quá trình xóa bỏ nhà nước tư sản, đó là phải kiên quyết thực hiện bạo lực cách mạng. Chỉ dẫn này làm sáng tỏ lý luận cách mạng bạo lực và liên minh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Song song với quá trình phá hủy, đập tan bộ máy của nhà nước tư sản, giai cấp công nhân phải ngay lập tức xây dựng chính quyền của mình theo cách thức riêng, phủ định bản chất của nhà nước tư sản.

Chuyên chính vô sản trong quan điểm của Lênin là tạo ra một nhà nước kiểu mới: “nhà nước dân chủ kiểu mới (dân chủ đối với những người vô sản và nói chung những người không có của) và chuyên chính kiểu mới (chống lại giai cấp tư sản)”. Nhà nước ấy không chỉ bảo vệ cho sự thống trị của giai cấp công nhân mà còn bảo vệ cho quyền lợi của những người lao động. Muốn thực hiện được yêu cầu đó, Lênin cho rằng: “tất cả mọi viên chức, không trừ một ai, đều do tuyển cử bầu ra và có thể bị bãi miễn…”3.

Nhiệm vụ cơ bản đặt ra đối với chuyên chính vô sản trong quan điểm của Lênin là phải thủ tiêu mọi chế độ người bóc lột người, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Muốn làm được điều đó, một mặt giai cấp công nhân phải thực hiện sự liên minh với giai cấp nông dân và toàn thể nhân dân lao động, bởi nếu không có sự liên minh thì không thể có “dân chủ vững bền”, không thể có cải tạo xã hội chủ nghĩa được; mặt khác, chuyên chính vô sản cần phải có một chế độ quản lý mới, thực sự có tính chất nhân dân và được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

Lênin khẳng định, đặc điểm khác biệt của nhà nước vô sản so với nhà nước trước kia là ở chế độ dân chủ. Ông chứng minh rằng, ngay cả khi nhà nước tư sản ở giai đoạn cao nhất theo chế độ cộng hòa dân chủ thì nó vẫn bị bó hẹp trong khuôn khổ của sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bởi, chế độ dân chủ ấy chỉ giành cho thiểu số, giành cho giai cấp tư sản giữ địa vị thống trị về kinh tế trong xã hội. Ngược lại, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mọi tầng lớp và giai cấp bóc lột đều được hưởng quyền lợi chính đáng của mình, nhà nước phải bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Sau khi nền dân chủ trong xã hội chủ nghĩa được thực hiện một cách triệt để nhất, xã hội không còn hiện tượng người bóc lột người, vì thế cũng không cần phải tồn tại nhà nước với tư cách là công cụ trấn áp của giai cấp này đối với giai cấp khác. Lúc đó, nhà nước sẽ tự tiêu vong. Tuy nhiên, theo ông sự tiêu vong này là một quá trình lâu dài và nó sẽ phụ thuộc vào tốc độ phát triển của giai đoạn cao trong hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Với việc phân tích sự vận động của quá trình lịch sử xã hội, Lênin không chỉ bảo vệ, khẳng định tính đúng đắn trong quan điểm của chủ nghĩa Mác mà còn bổ sung, hoàn chỉnh hơn quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen. Trên cơ sở sự phân tích mâu thuẫn của xã hội tư bản đương đại, tổng kết thực tiễn phong trào công nhân trên thế giới, Lênin chỉ ra tính tất yếu của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm tạo ra những điều kiện, tiền đề vật chất để tiến tới chế độ xã hội mới, ở đó, việc phát huy vai trò của giai cấp công nhân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình tổ chức, vận hành bộ máy nhà nước là yêu cầu tất yếu khách quan, là quy luật của sự phát triển.

2. Thực tiễn vận dụng tư tưởng của Lênin về nhà nước vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, mặc dù tình hình thực tiễn đã có nhiều thay đổi nhưng những kiến giải của V.I.Lênin vẫn còn nguyên giá trị đối với các quốc gia – dân tộc đang trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam. Từ quan điểm của Lênin về nguồn gốc, bản chất của nhà nước trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt, vận dụng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trên các vấn đề cơ bản sau:

Một là, giữ vững bản chất giai cấp công nhân kết hợp với bản chất của nhân dân lao động và của cả dân tộc trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Vấn đề bản chất giai cấp của nhà nước được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là một trong những nguyên tắc sống còn trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Nguyên tắc này đã được thể chế hóa trong Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp công nhân. Bản chất này được thể hiện trong mục tiêu của Nhà nước là vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các nguyên tắc, pháp luật, cơ chế, chính sách trên nền tảng quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, hướng đến từng bước giải quyết nhu cầu, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của Nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn mang tính Nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đây là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của Lênin về bản chất của nhà nước trong điều kiện Việt Nam, khởi nguồn từ tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam có truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xu hướng đề cao tính cộng đồng, sự hài hoà, giản dị, tế nhị trong lối sống, trong cách ứng xử rất nổi bật. Đặc điểm này đòi hỏi giai cấp lãnh đạo đất nước và Nhà nước phải luôn đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của toàn dân tộc; kết hợp hài hoà tính giai cấp với tính nhân dân và tính dân tộc trong phương thức tổ chức, hoạt động và trong cả quá trình vận hành bộ máy nhà nước.

Ngày nay, tính nhân dân của Nhà nước ta thể hiện Nhà nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, Nhân dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước, là người thiết lập, đồng thời tham gia quản lý nhà nước. Phục vụ Nhân dân là mục đích, tôn chỉ duy nhất của Nhà nước; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước coi việc phục vụ, phục tùng Nhân dân là bổn phận tối cao của bản thân.

Tính dân tộc của Nhà nước thể hiện: trong tổ chức, điều hành các hoạt động, Nhà nước luôn kế thừa và phát huy giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc và các thế hệ con người Việt Nam; chú trọng chăm lo lợi ích mọi mặt, ban hành những chính sách phù hợp, đúng đắn đối với các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam; coi việc phát huy đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong tiến trình cách mạng.

Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc trong bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vừa là một nhu cầu tự thân, vừa tất yếu khách quan. Trong tình hình hiện nay, Đảng, Nhà nước phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên nền tảng Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng.

Hai là, phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, nắm vững chuyên chính vô sản.

Trong thời gian qua, việc thực hiện dân chủ nói chung và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân nói riêng, nhất là trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã có những thành quả nhất định. Trên cơ sở, ý chí, nguyện vọng của Nhân dân được hiến định trong Hiến pháp năm 2013, nhiều văn bản quy phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực được ban hành. Các đạo luật đã quy định đầy đủ, rõ ràng hầu hết các quyền dân sự và chính trị, các cơ chế bảo đảm và phát huy các quyền này tại Việt Nam, tạo bước tiến mới trong bảo đảm quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, sản xuất…

Mới đây, tại kỳ họp thứ 6 (khóa XV) (lần thứ nhất diễn ra từ ngày 23/10/2023 – 10/11/2023), Quốc hội đã xem xét, thông qua 9 dự án luật bao gồm: Luật Đất đai (sửa đổi); Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi); Luật Nhà ở (sửa đổi); Luật Tài nguyên nước (sửa đổi); Luật Viễn thông (sửa đổi); Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự; Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở; Luật Căn cước công dân (sửa đổi); Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi).

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trong thời gian qua còn nhiều bất cập và hạn chế:

Nhận thức về dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở một bộ phận cán bộ và Nhân dân chưa đầy đủ, còn tình trạng mơ hồ, phiến diện trong nhận thức, dẫn đến hành động thiếu chuẩn mực. Một bộ phận có tư tưởng, thái độ coi thường kỷ luật, kỷ cương, có những yêu sách, đòi hỏi phi lý, nhất là những đòi hỏi liên quan đến “bồi thường lợi ích”.

Nhận thức sai lệch về mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung, coi dân chủ chỉ là một phương tiện để đạt tới sự tập trung chứ không phải là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, không coi trọng ý kiến cá nhân và ngược lại, một số bộ phận lại tách rời dân chủ với tập trung, tách rời quan điểm cá nhân với việc giữ gìn kỷ luật và sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trong xã hội.

Quá trình thực thi dân chủ trong thực tiễn có lúc, có nơi còn mang tính hình thức. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn chưa gương mẫu chấp hành những quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở. Trách nhiệm của người đứng đầu một số nơi còn để xảy ra tình trạng chồng chéo, dẫn đến hiện tượng “được thì tranh công, thua thì đổ lỗi”. Hoạt động trưng cầu dân ý chưa đi vào thực chất, chưa khai thác, phát huy tối đa ý kiến của đội ngũ chuyên gia, các nhà khoa học trong xây dựng một số văn bản pháp luật, đề án, dự án. Vì vậy, có một số những dự án, quy định gây ra những bức xúc dư luận, dẫn tới tình trạng khiếu kiện, khiếu nại kéo dài, thậm chí xảy ra tình trạng khiếu kiện vượt cấp vì người dân không còn đủ tin tưởng vào cơ quan công quyền địa phương. Thời gian xử lý đơn, thư còn chậm, chưa thực sự quan tâm đúng mức trong việc lắng nghe, phản hồi ý kiến, phản ánh của người dân. Tình trạng này đã làm suy giảm niềm tin của Nhân dân vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và những người ra quyết định.

Dân chủ là một trong những vấn đề nền tảng, là đặc trưng cơ bản nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, dân chủ xã hội chủ nghĩa có thể có sự đa dạng về hình thức nhưng suy đến cùng bản chất của nó chính là chuyên chính vô sản. Lênin từng khẳng định: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức chính trị khác nhau nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một, tức là: chuyên chính vô sản”4.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát huy dân chủ, tại Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc”5. Quan điểm này tiếp tục được Đảng nhấn mạnh tại Đại hội XIII: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyên vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”6. Theo đó, hoàn thiện cơ chế, nâng cao hiệu quả phát huy dân chủ cơ sở; kiên định kết hợp phát huy dân chủ với tăng cường pháp chế, bảo đảm trật tự, kỷ cương xã hội là định hướng chủ yếu để giải quyết những vấn đề bất cập, hạn chế mà thực tiễn đang đặt ra.

Ba là, phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trước yêu cầu của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển vượt bậc của khoa học – công nghệ, giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển mạnh về số lượng, chất lượng, đa dạng về cơ cấu, ngành nghề. Sự biến đổi của địa vị kinh tế – xã hội đã kéo theo sự nhận thức ngày càng đúng đắn về sứ mệnh lịch sử của giai cấp. Đội ngũ công nhân Việt Nam, nhất là đội ngũ đảng viên trong giai cấp công nhân đã kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của giai cấp qua các thời kỳ cách mạng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng; kiên trì khắc phục và vượt qua khó khăn, thách thức, quyết liệt trong hành động, sáng tạo trong sản xuất. Đặc biệt, họ luôn nỗ lực phát huy vai trò của bản thân trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hòa cùng xu hướng phát triển của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam có xu hướng “trí tuệ hóa” rõ rệt. Nguyên nhân của xu hướng này xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đổi mới và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận, trong quá trình phát triển và trưởng thành, giai cấp công nhân Việt Nam luôn có ý thức rèn luyện, học hỏi nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, khẳng định năng lực của bản thân trong quá trình sản xuất.

Bên cạnh đó, giai cấp công nhân Việt Nam, thông qua tổ chức công đoàn phát huy tốt vai trò tiên phong trong các phong trào thi đua như “Lao động giỏi”, “Lao động sáng tạo”; “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; “Xanh – Sạch – Đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động”, các phong trào văn hóa, thể thao… Thông qua các phong trào này, giai cấp công nhân không chỉ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế – xã hội của từng cơ quan, doanh nghiệp, địa phương, ngành và đất nước mà còn tiếp tục phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể của giai cấp. Điển hình là từ năm 2021 đến nay, “Giá trị sáng tạo của giai cấp công nhân đã đóng góp hằng năm cho đất nước chiếm hơn 65% tổng sản phẩm quốc dân và hơn 70% ngân sách nhà nước”7.

Tuy nhiên, so với yêu cầu của quá trình phát triển đất nước, hội nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, như: trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động vẫn còn thấp; đời sống vật chất, tinh thần của công nhân chưa được bảo đảm; ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp của một bộ phận công nhân còn yếu, ý thức chính trị, nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Tỷ lệ đảng viên, đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp. Vai trò của tổ chức đảng và các đoàn thể trong các doanh nghiệp chưa đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng về số lượng và cơ cấu của giai cấp công nhân8.

Thực tế đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải xác định mục tiêu xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế…

3. Kết luận

V.I. Lênin, người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen từng chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của chủ nghĩa Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”9.

Ngày nay, quán triệt tư tưởng của Lênin về nhà nước trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, Đảng, Nhà nước ta cũng luôn thể hiện sự “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo” như thế trong thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là vấn đề mang tính nguyên tắc, là bài học thành công của quá trình đổi mới, phát triển cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước trong gần 40 năm qua… 

Chú thích:
1, 2, 3, 4. V.I. Lênin toàn tập (2005). Tập 33. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 8, 110 – 111, 52 – 53, 57.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 69.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27 – 28.
7. Trang thông tin điện tử Công đoàn Việt Nam. http://www.congdoan.vn, truy cập ngày 10/12/2023.
8. Nguyễn Thị Quế – Nguyễn Thị Tú Hoa. Thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. http://lyluanchinhtri.vn, ngày 10/12/2023.
9. V.I.Lênin toàn tập (2005). Tập 4. H.NXB Chính trị quốc gia, tr. 232.
Tài liệu tham khảo:
1. Trương Quốc Chính (2013). Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo quan điểm Mácxít. H. NXB Chính trị quốc gia.
2. Lê Minh Quân (2003). Xây dựng Nhà nước pháp quyền đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị quốc gia.
3. Nguyễn Anh Tuấn (2018). Nhận thức mới về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Lê Trọng Tuyển và Hà Đức Long (2017). Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” của V.I. Lênin với vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.