TS. Lê Tuấn Đạt
ThS. Chu Thị Lê Anh
Học viện Chính trị khu vực I
(Quanlynhanuoc.vn) – Phát triển kinh tế ven biển theo hướng xanh là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, thực tiễn quá trình triển khai chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh cho khu vực kinh tế ven biển tại Việt Nam gặp không ít rào cản, khó khăn và thách thức. Bài viết làm rõ những cơ hội và thách thức, đề xuất một số giải pháp trong việc phát triển kinh tế ven biển theo hướng nền kinh tế xanh.
Từ khóa: Kinh tế ven biển; nền kinh tế xanh; phát triển bền vững; cơ hội; thách thức; giải pháp
1. Đặt vấn đề
Kinh tế xanh, tăng trưởng xanh đã được Chính phủ xác định tại Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó xác định: “Tăng trưởng xanh là một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu”. Đây là chiến lược quốc gia đầu tiên, toàn diện về lĩnh vực phát triển kinh tế xanh ở Việt Nam và các ngành kinh tế thuộc khu vực kinh tế ven biển cũng nằm trong những nhóm ngành chủ yếu định hướng phát triển theo hướng xanh. Hiện nay, với đường bờ biển dài khoảng 3.260km, sở hữu hơn 3.000 đảo và quần đảo lớn nhỏ và vùng biển thuộc chủ quyền, quyền tài phán quốc gia rộng hơn 1 triệu km2, Việt Nam có tiềm năng và lợi thế rất lớn trong phát triển kinh tế biển và ven biển1.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết đề ra mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể nhằm đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, có sự phát triển bền vững, thịnh vượng, bảo đảm an ninh, an toàn nền kinh tế biển và xác định các mục tiêu cụ thể: đến năm 2030, các ngành kinh tế thuần biển có đóng góp khoảng 10% GDP cả nước; kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65 – 70% GDP cả nước; các ngành kinh tế biển phát triển bền vững theo các tiêu chuẩn quốc tế; tăng cường kiểm soát khai thác tài nguyên biển gắn với bảo đảm khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển, ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Nghị quyết đã xác định một trong những chủ trương, đột phá trọng yếu để bảo đảm kinh tế biển và ven biển phát triển bền vững đó là cần phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh và bảo vệ môi trường.
Để việc triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW cũng như Quyết định số 1393/QĐ-TTg đạt được hiệu quả, đặc biệt là trong việc chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế ven biển theo hướng nền kinh tế xanh hướng đến phát triển bền vững, cần thiết phải có những nghiên cứu, đánh giá cụ thể về những cơ hội và thách thức mà Việt Nam sẽ có thể phải đối mặt trong phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh.
2. Cơ hội phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh của Việt Nam
Khu kinh tế ven biển là loại hình khu kinh tế mở tổng hợp ở khu vực ven biển và địa bàn lân cận được thành lập và phát triển theo các điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của pháp luật Việt Nam. Phát triển kinh tế ven biển theo hướng xanh, hướng tới phát triển bền vững được xem là mục tiêu chủ chốt để bảo đảm hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội đồng thời đạt được những mục tiêu về mặt môi trường. Những cơ hội trong phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh của Việt Nam:
Thứ nhất, cơ hội tái cấu trúc các ngành công nghiệp hàng hải và đánh bắt nuôi trồng thủy hải sản theo hướng xanh. Việt Nam có đường bờ biển với nhiều khúc khuỷu, nhiều eo, vũng, vịnh kín có độ sâu lớn, không gian rộng lớn ở ven biển và trên bờ biển rất thuận lợi làm cảng biển và phát triển các khu kinh tế ven biển và hơn 114 cửa sông lớn nhỏ đổ ra biển thuận lợi cho kết nối đường thủy nội địa. Đồng thời, vùng biển của Việt Nam tiệm cận với các tuyến đường hàng hải quốc tế và khu vực với trung bình gần 300 lượt tàu biển vận chuyển qua Biển Đông mỗi ngày, trong đó có hơn 50% tàu có trọng tải trên 5.000 DWT, khoảng 15-20% tàu có trọng tải từ 30.000 DWT trở lên, chiếm 1/4 lượng tàu hoạt động trên các vùng biển trên toàn cầu2. Bên cạnh thuận lợi cho phát triển cảng hàng hóa, nhiều vị trí ven bờ biển nước ta phù hợp để xây dựng các nhà máy đóng tàu và sửa chữa tàu biển, là điểm thuận lợi cho công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển phát triển.
Biển Việt Nam còn có nguồn lợi thủy sản dồi dào nhờ đặc trưng đa dạng sinh học và các hệ sinh thái biển, gồm khoảng gần 5 triệu tấn cá biển với khả năng khai thác bền vững là 2,3 triệu tấn/năm, chưa tính đến trữ lượng tôm biển, mực và các loài sinh vật đáy trong vùng triều. Khoảng 15 bãi cá lớn (12 bãi cá phân bổ ở vùng ven bờ và 3 bãi cá ở các gò nổi ngoài khơi) cùng các bãi tôm phân bố ở vùng biển sát bờ thuộc Vịnh Bắc Bộ và biển Tây Nam Bộ đã được phát hiện và khai thác ổn định. Tổng diện tích có thể khai thác là 500.000 ha vùng vịnh kín ven bờ, ven các đảo gần bờ và các bãi triều thấp để phát triển nuôi biển. Đến nay, khoảng 57.000 ha đã được sử dụng cho ngành chăn nuôi, 443.000 ha còn lại vẫn ở dạng tiềm năng, đặc biệt là các khu biển vùng bờ và vùng lộng. Thời gian qua, khoảng 80% lượng thuỷ sản đã được khai thác từ vùng biển ven bờ và vùng nước lợ ven biển, đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân và có đóng góp lớn, khá ổn định vào thị phần xuất khẩu, đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước3.
Qua gần 40 năm đổi mới, quá trình đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã giúp nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngành kinh tế ven biển nói riêng liên tục tăng trưởng, dần xây dựng nên nội lực bên trong (nhân lực, vật lực, tài lực) cho một xu thế phát triển mới. Với nguồn nội lực mạnh mẽ sẵn có như vậy cùng với sự đồng thuận cao trong xã hội, nếu có định hướng chiến lược đúng chuyển đổi mô hình phát triển từ kinh tế “nâu” sang kinh tế “xanh” thì quá trình này sẽ được thực hiện dễ dàng và ít trở ngại hơn.
Thứ hai, tiềm năng phát triển du lịch theo hướng kinh tế xanh. Các vùng ven biển của Việt Nam với đường bờ biển dài và hàng nghìn hòn đảo ven bờ mang tiềm năng lớn cho phát triển du lịch biển xanh. Việt Nam có nhiều bãi biển đẹp, trong đó có một số bãi biển và vịnh được đánh giá đẹp hàng đầu thế giới, như: bãi biển Mỹ Khê (Đà Nẵng), Phú Quốc (Kiên Giang), Eo Gió (Bình Định), vịnh Nha Trang, vịnh Lăng Cô, vịnh Hạ Long…; nhiều khu vực ven biển có rừng ngập mặn (rừng ngập mặn Cà Mau, rừng ngập mặn Cần Giờ…) cùng nhiều làng nghề, lễ hội độc đáo thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Những tiềm năng trên đã mở ra cơ hội để phát triển du lịch, xây dựng và truyền bá văn hóa Việt Nam.
Thứ ba, tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo. Trong những năm qua để phát triển nguồn năng lượng xanh dần thay thế nguồn năng lượng truyền thống là dầu, khí và than, góp phần giảm thiểu phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính, Việt Nam đã nghiên cứu và triển khai đồng thời các nguồn năng lượng gió, mặt trời trên đất liền và ven biển. Đánh giá của Viện nghiên cứu biển và hải đảo (Tổng cục biển và hải đảo) cho thấy, vùng ven biển nước ta, đặc biệt vùng ven bờ đồng bằng sông Cửu Long có diện tích rộng khoảng 112.000 km2, khu vực có độ sâu từ 30 – 60m có diện tích rộng khoảng 142.000 km2 có tiềm năng phát triển điện gió biển rất tốt. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng 475.000 MW điện gió ngoài khơi ở vùng biển có độ sâu nhỏ hơn 200 m4.
Đối với năng lượng sóng, các kết quả tính toán hiện nay đều cho thấy tiềm năng năng lượng sóng vùng ven bờ biển nước ta tương đối lớn, phụ thuộc trực tiếp vào hai mùa gió Đông Bắc và gió Tây Nam. Ở các vùng thoáng, có đà sóng lớn theo hướng đông bắc, tây nam và nam đều nhận được dòng năng lượng sóng khá lớn. Theo đó, có thể phân vùng tiềm năng năng lượng sóng dọc dải ven biển Việt Nam thành 6 vùng với các đặt trưng năng lượng sóng khác nhau với mật độ năng lượng sóng ven bờ từ 3-10kW/m và thay đổi theo các mùa và vùng trong năm5.
Thứ tư, thể chế phát triển kinh tế biển và ven biển được quan tâm và ngày càng hoàn thiện. Nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh tế xanh với các trụ cột về môi trường – kinh tế – xã hội, Chính phủ Việt Nam đã từng bước ban hành nhiều chiến lược và chính sách nhằm chuyển dịch từ “nâu” sang “xanh” nền kinh tế cũng như trong phát triển kinh tế ven biển, như: Luật Biển Việt Nam năm 2012, Quyết địnhsố 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 – 2020; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015. Đưanội dung Quy hoạch không gian biển quốc gia vào Luật Quy hoạch năm 2017; Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 06/9/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050… Đồng thời, dần hoàn thiện dần các văn bản quy phạm pháp luật, quy định phù hợp với các cam kết quốc tế về môi trường và phát thải CO2 như Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Quyết định số 1746/QĐ-TTg ngày 04/12/2019 ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về quản lý rác thải nhựa đại dương đến năm 2030; Quyết định số 208/QD-TTg ngày 10/3/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án chuyển đổi một số nghề khai thác hải sản ảnh hưởng đến nguồn lợi và môi trường sinh thái…
3. Thách thức nhằm phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh
Khu vực ven biển Việt Nam nhìn chung vẫn đang trên đà phát triển với rất nhiều lợi thế, tiềm năng, tuy nhiên để phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh cần phải vượt qua một số thách thức:
Thứ nhất, một trong những khó khăn lớn nhất là cách tiếp cận phát triển kinh tế ven biển theo hướng xanh hóa phải từ tư duy, nhận thức. Kinh tế xanh vẫn còn là một khái niệm tương đối mới ở Việt Nam, chưa khái quát thành một lý thuyết kinh tế đầy đủ, chưa có cơ sở lý luận làm nền tảng cho hành động. Việc thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại mô hình phát triển kinh tế trong điều kiện hiện nay của Việt Nam là điều không dễ thực hiện. Thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng xanh đòi hỏi sự hy sinh những lợi ích trước mắt, đây được xem là rào cản và thách thức rất lớn. Nếu không có những nhận thức đầy đủ và chính xác ngay từ sớm thì việc thực hiện mô hình kinh tế xanh khu vực kinh tế ven biển sẽ rất khó khăn.
Thứ hai, biến đổi khí hậu và nước biển dâng trở thành vấn đề cấp bách toàn cầu cùng với đó hệ sinh thái tự nhiên đang chịu áp lực ngày càng tăng do phát triển và khai thác quá mức. Việc khai thác tiềm năng nguồn lợi thủy sản chưa hiệu quả, thiếu bền vững, chưa kiểm soát được hạn mức cấp phép khai thác hải sản cho từng vùng biển dẫn đến tình trạng cạn kiệt nguồn lợi hải sản ở vùng ven bờ. Các hệ sinh thái ven bờ biển (rừng ngập mặn, vùng triều, rạn san hô…) có xu hướng suy giảm nghiêm trọng do tác động của hoạt động kinh tế, xây dựng. Việc thực hiện các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng chưa đồng bộ, hiệu quả hạn chế.

Thứ ba, tình trạng nhiễm môi trường trên diện rộng mà do hoạt động kinh tế và sinh hoạt phát sinh thải ra môi trường ngày càng phức tạp. Khoảng 70 – 80% lượng rác thải trên biển có nguồn gốc từ nội địa khi các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, khu dân cư xả nước thải, chất thải rắn không qua xử lý ra các con sông ở vùng đồng bằng ven biển hoặc xả thẳng ra biển; trong khi đó, các hoạt động du lịch có ảnh hưởng tới 20 – 30% đến môi trường sinh thái, cảnh quan tự nhiên của biển7. Bên cạnh đó là ô nhiễm do tai nạn tàu theo dòng hải lưu di chuyển về bờ biển Việt Nam và hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí cũng đang gây ô nhiễm hệ sinh thái biển, tác động trực tiếp đến sinh kế của người dân sinh sống ven biển. Tuy nhiên, hiện chưa có giải pháp căn cơ, đồng bộ nhằm giải quyết cơ bản vấn đề ô nhiễm môi trường biển.
Thứ tư, vấn đề tài chính. Là một nước đang phát triển với GDP bình quân đầu người tương đối thấp, Việt Nam phải đối mặt với những hạn chế về năng lực tài chính, cả trong khu vực công và tư nhân. Quá trình chuyển đổi sang các ngành công nghiệp “xanh” đòi hỏi sự đầu tư lớn, đây có thể là thách thức đối với các doanh nghiệp và yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng cho vùng ven biển. Tín dụng xanh đã tăng trưởng tích cực trong giai đoạn 2017 – 2023 với mức dư nợ tín dụng tăng trưởng bình quân đạt hơn 22%/năm. Tính đến ngày 31/12/2023, đã có 47 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ đạt 620.984 tỷ đồng, tăng 24% so với cuối năm 2022, chiếm tỷ trọng khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm tỷ trọng gần 45%) và nông nghiệp xanh (gần 30%)8. Tuy nhiên, đây vẫn là một con số khiêm tốn tương quan với nhu cầu tín dụng phục vụ cho phát triển kinh tế xanh của Việt Nam.
Thứ năm, nguồn nhân lực hạn chế. Số lượng và chất lượng nguồn lao động trong các ngành kinh tế biển Việt Nam còn thiếu và chưa đạt yêu cầu, như: ngành hàng hải, du lịch, dịch vụ cảng, ngư nghiệp,… Trong đó, lực lượng lao động trong các lĩnh vực như thủy sản, du lịch và công nghiệp biển còn hạn chế và hầu hết là lao động phổ thông, đồng thời, lực lượng lao động trẻ chuyển sang làm việc trong các khu công nghiệp, các thành phố lớn và không còn hứng thú với các công việc ngư nghiệp.
Thứ sáu, chưa có phương pháp quản lý hiệu quả. Các phương thức quản lý biển và vùng ven biển mới, tiên tiến như quản trị theo không gian, quản lý tổng hợp vùng bờ còn chậm được áp dụng. Công tácquản lý, khai thác, sử dụng biển và hải đảo còn thiếu bền vững, vẫn còn xảy ra tình trạng khai thác tận diệt dẫn tới lãng phí tài nguyên biển, làm suy giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản, gây ô nhiễm môi trường. Đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng biển, đảo còn dàn trải, thiếu tính hệ thống, chiều sâu, chưa tạo đột phá và vươn ra vùng biển quốc tế.
4. Một số giải pháp phát triển kinh tế theo hướng kinh tế xanh
Phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh để phát triển bền vững trong bối cảnh hiện nay là xu thế tất yếu trên toàn cầu mà Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Hơn nữa, phát triển kinh tế xanh còn được kỳ vọng có thể tạo tiền đề cho tái cơ cấu khu vực kinh tế ven biển, nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng chống chịu trước các ảnh hưởng từ biến đổi. Trong thời gian tới, để phát triển kinh tế ven biển theo hướng kinh tế xanh, tác giả đề xuất một số khuyến nghị sau:
Một là, kiên định quan điểm xây dựng nền kinh tế xanh mục tiêu phát triển, trong đó kinh tế ven biển đóng góp lớn trong nhiều ngành, lĩnh vực, như: du lịch, vận tải, ngư nghiệp, công nghiệp đóng tàu,… Để làm được việc này cần có các nghiên cứu chuyên sâu về mô hình, phương pháp, cách thức,kinh nghiệm các quốc gia có tính chất tương đồng. Từ đó, tạo cơ sở khoa học xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế vùng ven biển theo hướng xanh hóa. Khuyến khích các thành phần kinh tế với trình độ, công nghệ phù hợp tham gia phát triển kinh tế vùng ven biển.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Đây là cơ sở để từ đó các địa phương có căn cứ để xây dựng định hướng phát triển kinh tế ngành, lĩnh vực phù hợp. Cần nghiên cứu, khảo sát quy định của các quốc gia, khu vực, xu thế thế giới trong quản lý vùng ven biển và phát triển kinh tế vùng ven biển. Trong đó, các bộ, ngành trong qua trình xây dựng văn bản pháp luật cần có đánh giá, khảo sát thực tế tại các địa phương để có định hướng chung phù hợp. Các quy định cần có tính hệ thống, không trùng lặp hay dẫm chân nhau giữa các văn bản và có tính chất gợi mở, khuyến khích để các chủ thể tham gia phát huy hết khả năng và hạn chế được các bất cập. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, đẩy nhanh việc xác lập và trình duyệt các quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành và địa phương có biển, bảo đảm định hướng kinh tế xanh cho các vùng, ngành kinh tế ven biển.
Ba là, quy hoạch phát triển các địa phương cần phân vùng phát triển và khai thác hợp lý. Công tác quy hoạch, thiết kế và xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng kỹ thuật và tiện ích thích hợp, hiện đại, kết nối các khu vực hiện có và xây mới cần được chú trọng. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và tiện ích được thiết kế và đầu tư mới phù hợp với điều kiện thực tế của khu vực, tiện lợi sử dụng nhưng không làm ảnh hưởng đến môi trường và hệ sinh thái ven biển và vùng biển. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông cần kết nối với các khu kinh tế, đô thị thành một thể thống nhất. Các công trình tiện ích cần có thiết kế kiến trúc mang tính đặc trưng, mỹ quan đóng góp thêm cảnh quan của khu vực.
Bốn là, cần có chính sách để dành nguồn lực ưu đãi cho phát triển kinh tế xanh ven biển. Tỉ trọng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế cho kinh tế xanh còn nhỏ so với tổng dư nợ, do đó, cần phải có chính sách để khuyến khích vay với số vốn vay lớn hơn, thời gian dài hơn, lãi suất thấp hơn và thủ tục đơn giản hơn từ đó các cá nhân, doanh nghiệp có khả năng đầu tư vào phát triển kinh tế xanh ven biển. Đồng thời, tận dụng thành tựu khoa học công nghệ trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phục vụ cho các hoạt động kinh tế xanh ven biển, như kết hợp công nghệ cao như công nghệ RFID, blockchain để xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc giúp quản lý, kiểm tra nguồn gốc thủy, hải sản dễ dàng hơn; xây dựng hệ thống cảnh báo thiên tai để công tác phòng, tránh được hiệu quả, giảm thiểu tối đa tác hại. Đề suất thành lập đội ngũ chuyên gia nghiên cứu chuyên sâu về cách khai thác tiềm năng du lịch biển và vùng ven biển mà không cần tác động xấu đến hệ sinh thái biển và đa dạng sinh học.
Đồng thời, đẩy mạnh đổi mới, tận dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, khoa học công nghệ mới, thu hút các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành và nguồn nhân lực chất lượng cao nâng cao cơ hội xuất khẩu cho sản phẩm thủy sản. Các thị trường nhập khẩu thủy sản lớn trên thế giới, như EU, Mỹ,… yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt khâu kiểm soát chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Điều này đặt ra thách thức cho hoạt động khai thác thủy, hải sản của Việt Nam trong việc đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các nhà nhập khẩu. Biện pháp cấp thiết đối với thủy, hải sản Việt Nam là quản lý chặt chẽ để cải thiện chuỗi giá trị và kết hợp công nghệ cao như công nghệ RFID, blockchain để xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc giúp quản lý, kiểm tra nguồn gốc thủy, hải sản dễ dàng hơn.
Năm là, phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho nền kinh tế ven biển. Các địa phương có biển cần có chính sách khuyến khích thanh niên có trình độ của địa phương trở về làm việc tại địa phương bằng các ưu đãi hỗ trợ vay vốn, thuê đất, mạng lưới kết nối việc làm… Cùng với đó, đặt hàng các học viện, trường đại học, cao đẳng đào tạo, bồi dưỡng cho thanh niên của địa phương nhằm tạo nguồn nhân lực cho các ngành, lĩnh vực kinh tế mà địa phương mong muốn phát triển.
Điều cần quan tâm khi triển khai thực hiện các biện pháp thúc đẩy phát triển kinh tế vùng ven biển theo hướng kinh tế xanh là cần có sự chủ động và quyết liệt của các địa phương trong công tác quy hoạch, cụ thể hóa các chiến lược, xây dựng các mô hình quản lý phát triển kinh tế ven biển không chỉ giúp cụ thể hóa các đường hướng, chiến lược cấp trung ương mà còn cần xác định điều này sẽ thực sự tạo nên đóng góp không nhỏ cho việc cải thiện môi trường sống của người dân trong sạch, giảm ảnh hưởng của các yếu tố có hại cho môi trường và góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội bền vững của mỗi tỉnh, mỗi vùng.
Chú thích:
1, 2, 3, 5. Tiềm năng phát triển các ngành kinh tế biển của Việt Nam.https://tapchicongthuong.vn/tiem-nang-phat-trien-cac-nganh-kinh-te-bien-cua-viet-nam-101655.htm#:~:text=TCCT%20L%C3%A0%20qu%E1%BB%91c%20gia%20ven,%C4%91%E1%BA%A3o%20v%C3%A0%20qu%E1%BA%A7n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20kh%C3%A1c.
4. Phát triển điện gió ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. https://dangcongsan.vn/kinh-te/phat-trien-dien-gio-o-khu-vuc-dong-bang-song-cuu-long-533961.html.
6. Kiến thức về biến đổi khí hậu – Phần cuối. https://moitruongdulich.vn/index.php/item/17483.
7. “Ô nhiễm trắng” và những ảnh hưởng tới môi trường biển ở Việt Nam.https://dangcongsan.vn/xay-dung-xa-hoi-an-toan-truoc-thien-tai/o-nhiem-trang-va-nhung-anh-huong-toi-moi-truong-bien-o-viet-nam-672653.html.
8. Dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng hơn 22%/năm giai đoạn 2017 – 2023.https://thitruongtaichinhtiente.vn/du-no-tin-dung-xanh-tang-truong-hon-22-nam-giai-doan-2017-2023-58109.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Đức Anh (2020). Phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam. Tạp chí Công thương, số 14 (6/2020), tr.72 – 76.
2. Phạm Xuân Hậu (2011). Vấn đề phát triển kinh tế biển – đảo, ven biển Việt Nam thời kỳ kinh tế thị trường và hội nhập. Tạp chí khoa học Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 29, tr. 76 – 86.
3. Phát triển kinh tế biển Việt Nam – Tiềm năng và thách thức. https://mic.gov.vn/phat-trien-kinh-te-bien-viet-nam-tiem-nang-va-thach-thuc-197142675.htm
4. Tài chính xanh – Vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay. https://nhadautu.vn/tai-chinh-xanh-van-de-dat-ra-doi-voi-viet-nam-hien-nay-d84772.html
5. UNEP (2011). Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication – A Synthesis for Policy Makers. www.unep.org/greeneconomy.