Bùi Công Quang
Văn phòng Chính phủ
(Quanlynhanuoc.vn) – Việc nghiên cứu kiện toàn tổ chức các cơ quan chuyên môn trong những năm qua đã có sự thay đổi trong việc xác lập mô hình tổ chức, địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa cơ quan chuyên môn với Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở các địa phương hiện nay. Quá trình kiện toàn là một nội dung quan trọng của đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp, trong đó các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền ngày càng tinh gọn và hiệu quả.
Từ khóa: kiện toàn tổ chức; cơ quan chuyên môn; cấp tỉnh, cấp huyện; phân cấp, phân quyền; Ủy ban nhân dân.
1. Thực trạng tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
Cơ quan chuyên môn là bộ máy thực thi giúp Ủy ban nhân dân (UBND) cùng cấp triển khai các nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước (QLNN) theo ngành, lĩnh vực trên địa bàn. Trong hơn 30 năm qua, đã có sự thay đổi trong việc xác lập mô hình tổ chức, địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa cơ quan chuyên môn với UBND các cấp và với các cơ quan QLNN về ngành, lĩnh vực; có thể xem xét qua 3 giai đoạn sau đây:
(1) Giai đoạn trước năm 2003:
Trong giai đoạn này, tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND năm 1989 và các văn bản quy định chi tiết. Theo đó, cơ quan chuyên môn do UBND thành lập hoặc bãi bỏ theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng; có nhiệm vụ giúp UBND cùng cấp thực hiện chức năng QLNN ở địa phương và bảo đảm sự thống nhất quản lý của ngành hoặc lĩnh vực công tác từ trung ương đến cơ sở. Cơ quan chuyên môn chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp mình, đồng thời, chịu sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp trên. Thủ trưởng cơ quan chuyên môn chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước UBND, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân (HĐND) cấp mình khi cần thiết; đồng thời, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với cơ quan chuyên môn cấp trên.
Tại Nghị định số 15-CP ngày 02/3/1993 của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm QLNN của bộ, cơ quan ngang bộ đã quy định thẩm quyền của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ thỏa thuận việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức giám đốc sở để chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định. Đối với giám đốc sở quản lý nhiều ngành, thì sau khi trao đổi với các bộ, chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Trường hợp không nhất trí thì chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và chịu trách nhiệm. Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ quyết định của chủ tịch UBND cấp tỉnh về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức giám đốc sở không đúng quy định.
Như vậy, cơ quan chuyên môn thuộc UBND được hình thành và hoạt động theo nguyên tắc “song trùng trực thuộc”, vừa trực thuộc và chịu sự quản lý về tổ chức, kinh phí, biên chế, trách nhiệm công tác của UBND – cơ quan thành lập, đồng thời, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác đối với cơ quan cấp trên. Nguyên tắc này giúp tạo cơ chế đồng bộ trong QLNN theo địa bàn, lãnh thổ và theo ngành, lĩnh vực; tạo sự thống nhất, liên tục, thông suốt trong hoạt động QLNN từ trung ương đến địa phương.
(2) Giai đoạn từ năm 2004 – 2007:
Về cơ bản những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn không có nhiều sự thay đổi. Điểm mới là “giảm dần” vai trò của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực cấp trên đối với các cơ quan chuyên môn.
Theo Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thì thay vì thỏa thuận việc bổ nhiệm giám đốc sở như trước đây, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành quy định tiêu chuẩn chức danh thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh theo ngành, lĩnh vực quản lý, làm cơ sở để chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định bổ nhiệm thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp tỉnh. Về các công tác chuyên môn thì bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ vẫn giữ vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ đối với cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh theo ngành, lĩnh vực quản lý, đồng thời chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh.
Ở cấp huyện, theo Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của cơ quan chuyên môn cấp huyện thì cơ quan chuyên môn cấp huyện chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh. Chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan chuyên môn cấp huyện theo tiêu chuẩn, chức danh do UBND cấp tỉnh quy định (tiêu chuẩn, chức danh do cơ quan chuyên môn cấp tỉnh trình chủ tịch UBND cấp tỉnh ban hành).
Số lượng cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện theo Nghị định số 171/2004/NĐ-CP và Nghị định số 172/2004/NĐ-CP, cụ thể: ở cấp tỉnh, có 19 cơ quan được tổ chức thống nhất, 8 cơ quan chuyên môn đặc thù do UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định thành lập căn cứ vào điều kiện tự nhiên, dân số, tình hình phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu QLNN ở địa phương và theo quy định pháp luật. Ở cấp huyện có 12 cơ quan được tổ chức thống nhất, 3 cơ quan chuyên môn đặc thù; đối với huyện đảo thì số lượng cơ quan chuyên môn không quá 10 phòng.
Bên cạnh đó, một trong những nội dung thể hiện tinh thần phân cấp, phân quyền là việc quy định nguyên tắc tổ chức cơ quan chuyên môn là không nhất thiết ở trung ương có bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì ở tỉnh cũng phải có sở, cơ quan ngang sở. Ở cấp tỉnh có sở thì ở cấp huyện có cơ quan chuyên môn tương ứng. Như vậy, về nguyên tắc, các địa phương có thể tổ chức các cơ quan chuyên môn khác nhau đáp ứng yêu cầu quản lý theo đặc thù vùng, miền, địa bàn. Tuy nhiên, trên thực tế, căn cứ quy định của Chính phủ, hầu hết các địa phương tổ chức các cơ quan chuyên môn giống nhau, rất ít các địa phương tổ chức cơ quan chuyên môn đặc thù.
(3) Giai đoạn từ năm 2008 đến nay:
Theo Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, các cơ quan chuyên môn được điều chỉnh theo hướng tổ chức lại phù hợp với việc sắp xếp các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để đáp ứng yêu cầu xây dựng bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, không duy trì các cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nhiệm vụ QLNN. Về số lượng, ở cấp tỉnh có 17 cơ quan được tổ chức thống nhất, 3 cơ quan chuyên môn đặc thù; ở cấp huyện có 10 cơ quan được tổ chức thống nhất, 4 cơ quan chuyên môn đặc thù, đối với huyện đảo có không quá 10 phòng.
Bên cạnh việc chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, các bộ, cơ quan ngang bộ ban hành cụ thể tiêu chuẩn chức danh giám đốc, phó giám đốc cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh theo ngành, lĩnh vực quản lý. Đối với cơ quan chuyên môn cấp huyện, UBND cấp huyện quy định nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo hướng dẫn của UBND cấp tỉnh; chủ tịch UBND cấp huyện bổ nhiệm trưởng phòng, phó trưởng phòng các cơ quan chuyên môn cấp huyện theo tiêu chuẩn, chức danh do UBND cấp tỉnh quy định.
Tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đã bổ sung quy định cho phép địa phương căn cứ đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu QLNN ở địa phương và tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định, có thể quyết định thành lập các cơ quan đặc thù khác ngoài 3 cơ quan đặc thù quy định cụ thể trong Nghị định (Sở Ngoại vụ, Ban Dân tộc, Sở Quy hoạch – Kiến trúc). Theo đó, 13 địa phương đã trình Thủ tướng Chính phủ đồng ý việc thành lập Sở Du lịch để tách nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND cấp tỉnhcông tác QLNN về du lịch ra khỏi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Năm 2013, Quốc hội thông qua Hiến pháp trong đó ghi nhận nhiều nội dung mới, quan trọng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là những quan điểm, nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương. Tại Điều 111 Hiến pháp năm 2013 quy định chính quyền địa phương được tổ chức ở các đơn vị hành chính; cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) đã quy định chính quyền địa phương ở quận, phường là cấp chính quyền địa phương, trừ trường hợp cụ thể Quốc hội quy định không phải là cấp chính quyền địa phương. Quy định này cho phép chính quyền địa phương được tổ chức linh hoạt hơn, phù hợp với yêu cầu quản lý trên địa bàn.
Đến Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP đã không còn quy định thẩm quyền của các bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong việc ban hành cụ thể tiêu chuẩn chức danh giám đốc, phó giám đốc sở theo ngành, lĩnh vực quản lý cũng như nhiệm vụ của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh tham mưu, xây dựng, trình UBND tỉnh dự thảo văn bản quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, chức danh đối với trưởng, phó trưởng phòng chuyên môn cấp huyện trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý.
Ngoài ra, các bộ, cơ quan ngang bộ không ban hành văn bản hướng dẫn về cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, tương tự ở cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn không xây dựng trình UBND tỉnh văn bản hướng dẫn về tổ chức của cơ quan chuyên môn cấp huyện. Như vậy, một số nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực cấp trên đã được điều chỉnh theo hướng giảm dần sự “can thiệp” đến các cơ quan chuyên môn. Điều này cũng thể hiện rõ hơn chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo sự chủ động cho chính quyền địa phương quyết định một số vấn đề về công tác tổ chức và công tác cán bộ.
3. Một số nhận xét về tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
Trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, nhiều đề xuất đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đã được triển khai, trong đó có việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của cơ quan chuyên môn cơ bản giữ ổn định theo nguyên tắc “song trùng trực thuộc”. Nguyên tắc này có ưu điểm vừa bảo đảm yêu cầu công tác QLNN trên địa bàn, vừa đáp ứng yêu cầu QLNN theo ngành, lĩnh vực được thống nhất, thông suốt nhưng cũng phát sinh một số hạn chế, bất cập, cụ thể:
Thứ nhất, việc áp dụng nguyên tắc “song trùng trực thuộc” thời gian vừa qua cũng là một trong những nguyên nhân làm cho việc đổi mới tổ chức các cơ quan chuyên môn không thực sự mạnh mẽ, còn mang nhiều yếu tố quản lý ngành, lĩnh vực hơn là tính đến yếu tố đặc thù địa phương.
Việc đặt nặng vấn đề quản lý thống nhất theo ngành, lĩnh vực đối với tổ chức cơ quan chuyên môn dẫn đến nhận thức khác về vị trí, vai trò của cơ quan chuyên môn không chỉ là cơ quan tham mưu, giúp UBND cùng cấp mà coi các cơ quan này như một cơ quan độc lập có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ trong mối quan hệ với UBND và với cơ quan chuyên môn cấp trên. Do đó, trong các quy định pháp luật hiện hành, cũng như quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý theo ngành, lĩnh vực thường quan tâm xác lập mối quan hệ giữa các bộ, ngành với các cơ quan chuyên môn ở địa phương. Điều này cũng làm cho mối quan hệ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ với UBND cấp tỉnh không được thường xuyên và chặt chẽ.
Thứ hai, việc coi trọng quan hệ ngành, lĩnh vực trong mối quan hệ “song trùng trực thuộc” là lý do cơ bản cho việc thiết kế các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh theo các bộ, ngành. Các bộ, ngành coi các cơ quan chuyên môn ở địa phương như là “hệ thống dọc”, là cánh tay nối dài của ngành, lĩnh vực nên thường mong muốn duy trì các cơ quan tương ứng với ngành. Điều này gây khó khăn cho quá trình sắp xếp, thu gọn tổ chức hay điều chỉnh nhiệm vụ, tổ chức các cơ quan này theo đặc thù của địa phương.
Thứ ba, số lượng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện từ giai đoạn 2007 đến nay cơ bản giữ ổn định (phát sinh thêm cơ quan chuyên môn đặc thù ở cấp tỉnh là Sở Du lịch của 13 địa phương). Trong khi đó, mô hình tổ chức chính quyền địa phương trong giai đoạn này có nhiều sự thay đổi, trải qua giai đoạn thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tại 10 địa phương, hay triển khai mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại 3 thành phố (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng) theo tinh thần đổi mới của Hiến pháp năm 2013. Điều này cho thấy chưa có sự đồng bộ trong đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn với mô hình tổ chức chính quyền địa phương.
Hơn nữa, việc tổ chức hầu hết các cơ quan chuyên môn thống nhất ở các địa phương hay còn gọi “khoác áo chung” sẽ khó đáp ứng yêu cầu đặc thù giữa đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt. Thực tiễn chỉ ra việc “khoác áo chung” ở nhiều địa phương đã không còn phù hợp, một số địa phương thực hiện thí điểm mô hình tổ chức mới, như: Ban Quản lý an toàn thực phẩm (TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bắc Ninh), Trung tâm Hành chính công (Quảng Ninh, Đà Nẵng, Bắc Ninh), Đội Quản lý trật tự xây dựng đô thị tại Hà Nội (dự kiến TP. Hồ Chí Minh); việc thành lập mới một số tổ chức khác, như: Sở An toàn thực phẩm TP. Hồ Chí Minh hay thành lập Phòng Khoa học và Công nghệ tại thành phố Thủ Đức,…
4. Một số đề xuất kiện toàn cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện trong yêu cầu đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
a. Yêu cầu kiện toàn cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
Một là, việc kiện toàn cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện thực sự hiệu quả,đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới thì cần xem xét trên cơ sở hoàn thiện các nguyên tắc cơbản trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan này. Việc tổ chức các cơ quan chuyên môn theo nguyên tắc “song trùng trực thuộc” xuyên suốt thời gian vừa qua đã có những ưu điểm nhưng cũng bộc lộ một số nhược điểm như đã phân tích ở trên. Do đó, khi quán triệt nguyên tắc thì không nhất thiết ở trung ương có bộ, cơ quan ngang bộ và cấp tỉnh phải có tổ chức tương ứng; tương tự không nhất thiết ở cấp tỉnh có sở nào thì cấp huyện có tổ chức tương ứng. Các địa phương thiết kế các cơ quan chuyên môn phù hợp với yêu cầu quản lý của địa phương.
Đồng thời, để có cơ chế cho việc thực hiện nhiệm vụ QLNN theo ngành, lĩnh vực được thống nhất, thông suốt, thì cần xác định rõ hơn và chặt chẽ hơn mối quan hệ giữa các bộ, ngành với UBND cấp tỉnh, trong đó phải xác định nguyên tắc việc chịu trách nhiệm thực thi nhiệm vụ QLNN trong các ngành, lĩnh vực trên địa bàn trước tiên và cao nhất là UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện. Các cơ quan chuyên môn theo chức năng được UBND giao sẽ tham mưu, giúp UBND cùng cấp triển khai nhiệm vụ QLNN theo ngành, lĩnh vực.
Hai là, cần bám sát chủ trương của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm; đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ bằng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình và tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành, các địa phương trong việc xây dựng, kiện toàn tổ chức, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế. Đối với chính quyền địa phương, tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây dựng chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt; chủ động thí điểm ở những nơi có đủ điều kiện.
Trong thiết kế các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện phải gắn với chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Theo đó, các cơ quan chuyên môn cần đáp ứng trước tiên là yêu cầu quản lý địa bàn. Trên cơ sở yêu cầu nhiệm vụ, khối lượng công việc, đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội, các địa phương chủ động tổ chức cơ quan chuyên môn phù hợp. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu, quy định khung hợp lý các cơ quan chuyên môn để tạo dư địa cho địa phương chủ động quyết định cụ thể số lượng, cách thức tổ chức cơ quan chuyên môn giúp UBND thực hiện các nhiệm vụ quản lý đối với ngành, lĩnh vực cụ thể.
Ba là, việc kiện toàn các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện phải bám sát chủ trương cải cách hành chính, tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Việc sắp xếp các cơ quan chuyên môn trong gần 20 năm nay không những không làm giảm số lượng các cơ quan chuyên môn mà thậm chí còn tăng số lượng các cơ quan này (13 sở Du lịch), trong khi yêu cầu đổi mới, cải cách hành chính đòi hỏi các cơ quan ngày càng tinh gọn, giảm đầu mối tổ chức, tuy nhiên, trên thực tế, việc tổ chức theo mô hình chung ở một số địa phương đối với một số cơ quan chuyên môn không phù hợp với yêu cầu quản lý của địa bàn. Rõ ràng, khối lượng công việc, nhu cầu của địa bàn đối với các nhiệm vụ QLNN trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, về thông tin và truyền thông, nông nghiệp và phát triển nông thôn hay công thương,… ở mỗi địa phương là khác nhau, đặc biệt là ở đô thị và nông thôn, miền núi có sự khác biệt.
Bên cạnh đó, cần quán triệt Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 25/12/2022 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, sắp xếp các cơ quan chuyên môn “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả” như yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm.
Tiếp tục triển khai Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Bộ Chính trị, trong đó xác định nhiệm vụ của các tỉnh ủy, thành ủy lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thí điểm việc kiêm nhiệm chức danh người đứng đầu hoặc hợp nhất một số cơ quan của cấp ủy và cơ quan chuyên môn của chính quyền, cơ quan của cấp ủy và Mặt trận Tổ quốc có chức năng, nhiệm vụ tương đồng ở cấp tỉnh, cấp huyện những nơi có đủ điều kiện theo hướng dẫn của Trung ương.
Bốn là, việc kiện toàn cơ quan chuyên môn các cấp là một nội dung của đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương, vì vậy, cần được triển khai một cách mạnh mẽ, đồng bộ với quá trình nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương.
Việc kiện toàn phải trên cơ sở kết quả quá trình thử nghiệm một số mô hình mới thời gian vừa qua (hợp nhất một số cơ quan tham mưu của Đảng với cơ quan chuyên môn có chức năng, nhiệm vụ tương đồng hay việc hợp nhất văn phòng UBND cấp tỉnh với văn phòng HĐND cấp tỉnh và văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội) và việc triển khai một số mô hình tổ chức chính quyền địa phương hiện nay, nhất là việc không tổ chức cấp chính quyền ở một số đơn vị hành chính đô thị tại 3 thành phố (TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng), từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu và cách thức tổ chức cơ quan chuyên môn phù hợp.
b. Đề xuất kiện toàn cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
Trên cơ sở các yêu cầu về kiện toàn cơ quan chuyên môn, đồng thời thực hiện nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 27-NQ/TW, quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Chính phủ ban hành quy định về khung cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay, quy định về khung cơ quan chuyên môn không nên quá chi tiết, cụ thể đến tên gọi và chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan mà thay vào đó là việc tập trung quy định nội dung QLNN của từng ngành, lĩnh vực làm cơ sở để khi tổ chức các cơ quan chuyên môn, UBND cùng cấp chủ động quyết định việc giao cơ quan giúp UBND quản lý ngành, lĩnh vực cụ thể.
Về số lượng cần tính toán giảm so với hiện nay để phù hợp với chủ trương cải cách hành chính, tinh gọn tổ chức bộ máy. Theo đó, căn cứ vào diện tích, dân cư, các yếu tố kinh tế – xã hội, yêu cầu QLNN trên địa bàn để xác định nên xác định khung số lượng các cơ quan chuyên môn.
Mặt khác, đối với những đơn vị hành chính không tổ chức cấp chính quyền thì cần nghiên cứu tinh gọn các cơ quan chuyên môn để phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của UBND là chính quyền địa phương và là cơ quan hành chính làm nhiệm vụ QLNN các lĩnh vực công tác trên địa bàn.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2017). Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
2. Chính phủ (1993). Nghị định số 15-CP ngày 02/3/1993 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ.
3. Chính phủ (2008). Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
4. Chính phủ (2008). Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
5. Chính phủ (2014). Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân.
6. Chính phủ (2020). Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2020 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
7. Chính phủ (2020). Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I, II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
9. Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) (2017). Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
10. Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) (2022). Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 25/12/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
11. Quốc hội (2013). Hiến pháp năm 2013.
12. Quốc hội (2019). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019.
13. Sắp xếp tổ chức bộ máy tinh – gọn – mạnh – hiệu năng – hiệu lực – hiệu quả. https://tuyengiao.vn/sap-xep-to-chuc-bo-may-tinh-gon-manh-hieu-nang-hieu-luc-hieu-qua-157486.