Đại tá, PGS.TS. Trần Hồng Hải
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Từ khi ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm, chú trọng xác định những tư tưởng, quan điểm, chủ trương để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, một trong những tư tưởng quan trọng mang tính nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt trong bảo vệ Tổ quốc đó là tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, dĩ bất biến, ứng vạn biến.
1. Đặt vấn đề
Trong bất kỳ giai đoạn cách mạng nào, bảo vệ Tổ quốc luôn là một trong hai nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển, hưng thịnh của một quốc gia. Lịch sử Việt Nam hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, cũng như từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) đến nay đã chứng minh sự cần thiết, tầm quan trọng của bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc vững chắc là cơ sở, điều kiện tiên quyết bảo đảm sự ổn định mọi mặt để tập trung phát triển kinh tế, xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Bảo vệ vững chắc Tổ quốc trước tiên phải bảo đảm vững chắc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm sự ổn định về chính trị, ổn định về giai cấp lãnh đạo, ổn định về đường lối, mục tiêu chiến lược, ổn định và giữ vững trật tự an toàn xã hội để tập trung cao nhất nguồn lực phát triển kinh tế, xã hội, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2. Quá trình vận dụng tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ tổ quốc hiện nay
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 31/5/1946 trước khi Người sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau để “tìm kiếm giải pháp hòa bình” cho dân tộc; Người đã nói với cụ Huỳnh Thúc Kháng rằng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng với anh em giải quyết. Mong cụ dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Với tư tưởng đó, Đảng đã vận dụng hết sức linh hoạt, uyển chuyển để giữ vững chính quyền cách mạng, tạo thuận lợi, chuẩn bị lực lượng để chuẩn bị toàn quốc kháng chiến. Nhất là trong bối cảnh cách mạng mới giành được chính quyền chưa được lâu, đất nước đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, thù trong giặc ngoài câu kết chống phá cách mạng; cùng với giặc đói, giặc dốt. Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách, cùng một lúc giải quyết hiệu quả cả giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm.
Đặc biệt, đối với giặc ngoại xâm, bằng các sách lược linh hoạt, mềm dẻo, Đảng đã từng bước phân hóa, gạt bỏ từng kẻ thù, đưa đất nước vượt qua giai đoạn đầy khó khăn, thách thức, giữ vững thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong đó, Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946 được xem là sự sáng tạo, mẫu mực về vận dụng tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trên nguyên tắc thực hiện mục tiêu “bất biến” là giữ vững chính quyền cách mạng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ với mục tiêu bất biến “thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, “tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” là cơ sở cho Đảng hoạch định đường lối, chủ trương linh hoạt, “vạn biến”, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, lãnh đạo cả nước hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thời kỳ đổi mới, bằng tư duy khoa học, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nắm chắc mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và cụ thể hóa vào thực tiễn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đem lại nhiều thành tựu to lớn; từng bước đưa đất nước vượt qua tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp.
Trong bối cảnh hiện nay, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có biến động lớn, diễn biến nhanh, phức tạp. Mặc dù hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng vẫn đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng quyết liệt. Nhiều điểm nóng về an ninh tiếp tục tồn tại, có nguy cơ lan rộng; xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh, loại hình tác chiến, không gian chiến lược, phương thức tiến hành chiến tranh mới… tạo thách thức lớn đối với mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Do vậy, vận dụng tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đã và đang là một yêu cầu cấp thiết để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trước hết cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức đúng về tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận dụng bảo vệ Tổ quốc.
Đây là giải pháp tiên quyết nhằm vận dụng có hiệu quả tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Câu nói “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người đã thể hiện quan điểm kết hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ giữa nguyên tắc của mục tiêu chiến lược với tính linh hoạt, uyển chuyển của sách lược, giữa đường lối cách mạng và sách lược cách mạng. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là sự cô đúc tất cả tư tưởng, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh”1.
Do vậy, để thực hiện tốt tuyên truyền nhận thức đúng về tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận dụng bảo vệ Tổ quốc, trước hết cần phát huy vai trò của các các lực lượng, các chủ thể trong thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục; trong đó, trước hết, phát huy vài trò nòng cốt là các Ban Tuyên giáo từ Trung ương đến các địa phương, hệ thống các trường chính trị của Đảng và của các bộ ngành, đội ngũ các nhà khoa học, nhất là các chuyên gia nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thực hiện đa dạng các hình thức tuyên truyền: Thông qua các đài truyền hình và các trang báo của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành; thông qua các cuộc thi, các phóng sự ở tất cả các cấp, các ngành, các địa phương. Mục đích, nội dung tuyên truyền giúp mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ tư tưởng dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vận dụng bảo vệ Tổ quốc.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là cụm từ có nguồn gốc tiếng Hán, là một vế của một câu đối hoàn chỉnh mà vế thứ hai của nó là: “Dĩ chúng tâm, vi kỷ tâm”, được hiểu lấy tình cảm, ý chí của quần chúng làm tình cảm, ý chí của mình. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” có nghĩa là lấy cái bất biến – cái không thay đổi để ứng phó với cái vạn biến – cái thay đổi; ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất biến; tuyệt đối không thể vì bất cứ lý do nào thay đổi cái bất biến.
Vận dụng trong bảo vệ Tổ quốc thì cái bất biến chính là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cái vạn biến là vận dụng sử dụng tổng hợp cách thức, biện pháp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu bảo vệ Tổ quốc. Hoàn cảnh cũng như sự nghiệp cách mạng luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi theo hướng vạn biến. Nhưng dù có mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi như thế nào cũng không được xa rời mục đích cuối cùng, cái bất biến. Tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh từ hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc và trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong nhiều hoạt động như trong đối ngoại, quốc phòng, an ninh, đặc biệt trong vận dụng bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Cái “bất biến” được thể hiện xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Nước ta là một, dân tộc ta là một”; “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”2.
Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cái bất biến hiện nay chính là lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là cốt lõi. Cái “vạn biến” là khả năng ứng phó linh hoạt, mềm dẻo để phục vụ mục tiêu “bất biến”; kết hợp hài hòa với mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo trong tình huống cụ thể, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, khó khăn đến đâu cũng phải giữ vững nguyên tắc để đạt được cái “bất biến”.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải quyết tốt các mối quan hệ, phát huy mọi nguồn lực vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” xuyên suốt trong mọi thời kỳ cách mạng, nhất là trong bối cảnh hiện nay, cần nắm vững và luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ Tổ quốc. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, là cái “bất biến”.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, mục tiêu, phương pháp sách lược có thể điều chỉnh, song nguyên tắc và sợi chỉ đỏ là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội tuyệt đối không thay đổi. Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng ta xác định ngay từ khi thành lập và tiếp tục được khẳng định qua các giai đoạn lịch sử là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn vì đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một trong các quan điểm chỉ đạo cơ bản cần tiếp tục quán triệt trong cả nhận thức và hành động thực tiễn.
Trong bối cảnh hiện nay, cần tiếp tục quán triệt, nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong đó, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn.
Trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục phát huy mọi nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Theo đó, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sức mạnh, trí tuệ và truyền thống yêu nước của Nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chính phủ và các bộ, ngành, các địa phương cần tiếp tục triển khai, thể chế hóa, thực hiện tốt các quan điểm, chủ trương của Đảng, hoàn thiện thể chế phát triển trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam; mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng; tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao trách nhiệm cá nhân; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, tiêu cực; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực huy động và sử dụng các nguồn lực của đất nước; phát huy vai trò của Nhân dân, doanh nghiệp trong việc huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba là, nắm vững, kiên định mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở sử dụng linh hoạt, đa dạng các phương thức bảo vệ Tổ quốc.
Vận dụng tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong bối cảnh hiện nay, cần tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới với mục tiêu chung xác định đó là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc, trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền văn hóa; đồng thời bổ sung nội dung bảo vệ uy tín, vị thế quốc tế của đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; giữ vững, củng cố, tăng cường môi trường hoà bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo đó, cần kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với mọi hành vi xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm, phá hoại độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, nền văn hóa, các thành quả cách mạng, môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước nhanh, toàn diện, bền vững. Kiên quyết đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, cơ hội chính trị, cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đồng thời, để thực hiện mục tiêu bất biến là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, cần tiến hành đa dạng hóa phương thức bảo vệ Tổ quốc, cả phương thức đấu tranh vũ trang và phương thức phi vũ trang. Cần sử dụng linh hoạt, phát huy vai trò mỗi phương thức ở mỗi thời điểm, giai đoạn cách mạng, bảo đảm phù hợp thực tiễn, hướng tới mục tiêu cuối cùng là bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Phương thức đấu tranh vũ trang với đặc trưng sử dụng lực lượng vũ trang và biện pháp quân sự là chủ yếu, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự của đối phương.
Phương thức đấu tranh vũ trang không thuần túy chỉ gồm hoạt động quân sự, hoạt động của lực lượng vũ trang mà còn có sự thâm nhập, đan xen của nhiều nội dung đấu tranh phi vũ trang, đấu tranh tư tưởng, tâm lý; nhất là trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phương thức đấu tranh vũ trang đã có sự phát triển với phạm vi không gian rộng lớn, cả ở trong nước và ngoài nước, buộc đối phương phải thay đổi theo cách đánh của ta nhằm đập tan ý chí xâm lược của kẻ thù trong thời gian ngắn nhất. Phương thức đấu tranh phi vũ trang, thực hiện đấu tranh diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại với tính chất phi quân sự, phi vũ trang, trong đó đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là mũi nhọn, then chốt; là đặc trưng cơ bản của phương thức đấu tranh phi vũ trang bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Phương thức bảo vệ Tổ quốc cần nhất quán kết hợp sử dụng hai hình thức cơ bản trên nhằm tác động, hỗ trợ lẫn nhau, triển khai hoạch định chiến lược, kế hoạch, sử dụng lực lượng; xác định rõ phạm vi và nội dung kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh phi vũ trang, trong cả lĩnh vực quân sự và phi quân sự, trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; bao gồm từ việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đấu tranh, hoạch định chiến lược, tổ chức lực lượng, xây dựng cơ chế phối hợp; qua đó, tạo được sức mạnh tổng hợp cao nhất cho thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006) của Đảng nêu rõ: “Kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, kết hợp bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ”3.
Bốn là, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc.
Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tạo bởi sức mạnh tổng hợp của sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế, sức mạnh đối nội và đối ngoại. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong đối ngoại, tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc thì cái bất biến chính là độc lập, tự chủ, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc; cái vạn biến là thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
3. Kết luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”4. Tinh thần độc lập, tự chủ là mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam, đây chính là căn cứ quan trọng để Đảng, Nhà nước hoạch định và thực thi chủ trương, chính sách đối ngoại của nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh quan hệ các nước vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, do vậy, không trông chờ hay ảo tưởng vào sự trợ giúp của các quốc gia khác mà phải tự lực, tự cường dựa vào chính mình để tránh lệ thuộc vào nước khác làm mất tính độc lập, tự chủ và suy giảm sức mạnh, vị thế của đất nước. Đồng thời, để thực hiện được “ứng vạn biến”, cần đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước ta, cả mặt thuận lợi và mặt bất lợi. Đặc biệt, về sách lược phải xác định được rõ giới hạn của sự nhân nhượng để đề ra chính sách, phương pháp, cách thức tiến hành phù hợp, hiệu quả, bảo đảm giữ vững nguyên tắc chiến lược độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cần tiếp tục nhất quán tinh thần độc lập, tự chủ, lấy sức ta mà giải phóng cho ta; giữ vững nguyên tắc “4 không” chính sách đối ngoại quốc phòng Việt Nam: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa và mở rộng quan hệ đối ngoại với nhiều đối tác nhằm thúc đẩy, huy động nhiều nguồn lực và sự ủng hộ của các nước trên thế giới vào phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên định thực hiện đường lối đối ngoại vừa tuân thủ theo luật pháp quốc tế, vừa khéo léo, linh hoạt bảo vệ độc lập, tự chủ, tự cường dân tộc; từng bước đưa quan hệ đối ngoại của Việt Nam được mở rộng, đi vào chiều sâu và ổn định góp phần tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao đời sống nhân dân.
Chú thích:
1. Hoàng Chí Bảo (2005). Văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh – giá trị và ý nghĩa, Tạp chí Cộng sản, Số tháng 5/2005.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 627.
3. Hội đồng lý luận Trung ương (2006). Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006). H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 100.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 555
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
2. Nguyễn Phú Trọng (2021). Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. H. NXB Chính trị quốc gia.
3. Nguyễn Hùng Hậu (2012). Triết lý Dĩ bất biến, ứng vạn biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh. H. NXB Chính trị quốc gia.