Quản lý nhà nước về đổi mới, sáng tạo ở Việt Nam hiện nay 

PGS. TS. Nguyễn Hữu Hải
Trường Đại học Thành Đô

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết đánh giá vai trò của Nhà nước trong đổi mới sáng tạo, chỉ ra thực trạng quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo ở Việt Nam trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp  nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo, góp phần hiện thực hóa mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Từ khóa: Đổi mới sáng tạo; vai trò của Nhà nước; quản lý nhà nước. 

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam ra đời hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (hơn 45.000 doanh nghiệp), trong đó 11.200 doanh nghiệp làm phần mềm. Đặc biệt, có trên 1.500 doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài với doanh thu khoảng 7,5 tỷ USD1. Thành công này phần lớn xuất phát từ định hướng chính sách của Nhà nước với phương châm chiến lược: coi đổi mới sáng tạo là động lực chính cho sự tăng trưởng tương lai. 

Để duy trì sự ổn định, bền vững nền kinh tế, trong những năm tới, các nước đang phát triển như Việt Nam cần chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng lấy đổi mới sáng tạo làm cơ sở. Việc nghiên cứu quản lý nhà nước (QLNN) về đổi mới sáng tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình đổi mới đất nước góp phần hiện thực hóa mục tiêu Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội  đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045.

2. Đổi mới sáng tạo và vai trò của Nhà nước trong đổi mới sáng tạo 

Đổi mới sáng tạo là một thuật ngữ được tiếp cận và sử dụng phổ biến ở các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD) vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Trong Cẩm nang hướng dẫn đo lường hoạt động đổi mới sáng tạo của OECD (2018) đã đưa ra cách tiếp cận: Đổi mới sáng tạo là một sản phẩm/quy trình mới hoặc được cải tiến (hoặc kết hợp) có sự khác biệt rõ nét với các sản phẩm hoặc quy trình trước đó của đơn vị, đồng thời, cung cấp cho người dùng tiềm năng (đối với sản phẩm) hoặc được đơn vị sử dụng (đối với quy trình). Để có được các sản phẩm/quy trình đổi mới sáng tạo, tổ chức, cá nhân cần thực hiện các hoạt động: (1) Nghiên cứu và phát triển; (2) Thiết kế công nghệ và hoạt động sáng tạo khác; (3) Tiếp thị và tài sản thương hiệu; (4) Hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ; (5) Đào tạo nhân viên; (6) Phát triển phần mềm và cơ sở dữ liệu; (7) Các việc liên quan đến việc mua hoặc cho thuê tài sản hữu hình; (8) Quản lý đổi mới2.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, đổi mới sáng tạo được hiểu là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa3. Về bản chất, đổi mới sáng tạo là quá trình chuyển đổi tri thức công nghệ thành kết quả cụ thể (sản phẩm, dịch vụ hay quy trình) mang lại lợi ích giá trị gia tăng cho kinh tế – xã hội. Như vậy, đổi mới sáng tạo được coi là quá trình mang tính hai mặt: (1) Vừa tạo ra, ứng dụng các thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ; (2) Vừa là cách thức quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, đổi mới sáng tạo là một xu thế tất yếu không thể đảo ngược, là định hướng phát triển chung của cả thế giới. Đổi mới sáng tạo làm thay đổi phương thức tư duy và hành vi của con người, kích thích sự nhiệt tình sáng tạo của họ và là nhân tố quyết định sự tiến bộ của khoa học – công nghệ của đất nước. 

Đổi mới sáng tạo được chia thành nhiều hệ thống cấp độ khác nhau, từ hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ thống đổi mới sáng tạo khu vực, hệ thống đổi mới sáng tạo ngành và hệ thống đổi mới sáng tạo địa phương. Kết nối các hệ thống đổi mới sáng tạo thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, trong đó các yếu tố cấu thành được kết nối để tồn tại và phát triển liên tục bằng mạng các hoạt động tương hỗ, đổi mới sáng tạo. Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia dựa trên nền tảng hiểu biết về quan hệ biện chứng giữa các chủ thể tham gia vào quá trình này nhằm cải thiện hiệu suất công nghệ, gồm:

(1) Doanh nghiệp đổi mới sáng tạo tập trung vào ứng dụng công nghệ và nghiên cứu, phát triển sản phẩm mới bao gồm đổi mới kỹ thuật, công nghệ, đổi mới quản lý, thể chế, tổ chức và văn hóa. Năng lực đổi mới của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực đổi mới của một quốc gia.

(2) Đổi mới sáng tạo của tổ chức nghiên cứu khoa học thường mang tính phi lợi nhuận và chú trọng vào nghiên cứu cơ bản. Các tổ chức này ở khu vực công chủ yếu thực hiện những nghiên cứu mang tính vĩ mô, liên quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia, ngành hay địa phương. 

(3) Đổi mới sáng tạo của cơ sở giáo dục và đào tạo chuyên nghiệp (chủ yếu là các trường cao đẳng, đại học) với chức năng cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho hệ thống đổi mới sáng tạo. 

(4) Đổi mới sáng tạo của tổ chức dịch vụ khoa học – công nghệ trung gian tồn tại dưới các hình thức như tổ chức tư vấn khoa học – công nghệ, trung tâm nghiên cứu khoa học – công nghệ, trung tâm đổi mới công nghệ, công viên khoa học công nghệ, khu công nghệ cao… làm vai trò cầu nối giữa các chủ thể trong hệ thống đổi mới sáng tạo. 

(5) Đổi mới sáng tạo của chính quyền các cấp với vai trò hoạch định chính sách, tạo lập môi trường chính trị, pháp lý, thực hiện hỗ trợ quá trình đổi mới (nhất là trong nghiên cứu và ứng dụng) bảo đảm thực thi và phân bổ nguồn lực cho đổi mới sáng tạo quốc gia, ngành và các địa phương.

Để đổi mới sáng tạo được duy trì và phát triển bền vững, mỗi quốc gia thường quan tâm tìm kiếm cơ sở khoa học cho quản lý vĩ mô về đổi mới sáng tạo. Theo đó, hoạt động QLNN về đổi mới sáng tạo được xác lập trên cả ba cơ sở: 

(1) Về chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặc biệt quan tâm đến khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là một trong những quốc sách hàng đầu cho phát triển nhanh và bền vững, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 

(2) Về pháp lý: đổi mới sáng tạo được quy định trong nhiều đạo luật, nhất là Luật Khoa học và công nghệ

(3) Về thực tiễn: đổi mới sáng tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đất nước cũng như trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Đổi mới sáng tạo không chỉ giúp doanh nghiệp cải thiện năng lực cạnh tranh và tối ưu hóa quy trình sản xuất mà còn hỗ trợ thích ứng nhanh chóng với biến động thị trường và nhu cầu khách hàng. Đồng thời, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường giá trị thương hiệu, bảo đảm hiệu quả hoạt động và bền vững trong môi trường kinh doanh ngày càng khắc nghiệt.

Để đổi mới sáng tạo phát triển đúng hướng và phát huy vai trò thiết thực, Nhà nước chủ động quản lý các hoạt động này thông qua hệ thống công cụ vĩ mô, bao gồm: (1) Thống nhất quản lý hoạt động đổi mới sáng tạo của cả hệ thống sinh thái; (2) Xây dựng, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách khuyến khích, phát triển đổi mới sáng tạo, hoạt động khởi nghiệp sáng tạo và huy động các nguồn lực đầu tư cho đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo; (3) Quản lý, hướng dẫn và tổ chức triển khai các hoạt động đổi mới sáng tạo, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, khởi nghiệp sáng tạo; (4) Tạo lập và thúc đẩy môi trường pháp lý hỗ trợ đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp sáng tạo; (5) Quản lý, phát triển hệ thống tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; (6) Xây dựng, vận hành và phát triển mạng lưới khởi nghiệp sáng tạo quốc gia; (7) Hướng dẫn, đăng ký hoạt động đối với các tổ chức khoa học và công nghệ, quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao; (8) Chứng nhận hoạt động đối với tổ chức, cá nhân hoạt động công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao theo quy định của pháp luật.

3. Thực trạng quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo ở nước ta thời gian qua

Nhận thức đầy đủ về vai trò của đổi mới sáng tạo, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm, chủ trương coi đổi mới sáng tạo, khoa học và công nghệ là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quan điểm khuyến khích phát triển và ứng dụng thành tựu khoa học và kỹ thuật – nội hàm của đổi mới sáng tạo được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra, từ đó đến nay đã trở thành kim chỉ nam cho quá trình đổi mới kinh tế – xã hội đất nước. 

Để tập trung nguồn lực cho đổi mới sáng tạo, Đảng đã ban hành Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Đặc biệt, để thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiếp đến là Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư…

Định hướng đổi mới, sáng tạo ngày càng được bổ sung, hoàn thiện cho đến Đại hội XIII của Đảng với ba chiến lược: (1) “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển”, “thúc đẩy đổi mới sáng tạo”; (2) “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”; (3) “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội4.

Để xây dựng nguồn lực trực tiếp tham gia công cuộc đổi mới sáng tạo, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 10/10/2023 về xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới; gần đây nhất, Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 24/11/2023 về xây dựng đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước…

Căn cứ định hướng chính trị của Đảng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã nỗ lực sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho đổi mới sáng tạo, như: Luật Khoa học và công nghệ số 29/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội (khóa XIII); Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 12/12/2005 của Quốc hội (khóa XI) và sửa đổi, bổ sung qua các Luật số 36/2009/QH12 ngày 19/6/2009 Quốc hội (khóa XII); Luật số 42/2019/QH14 ngày 14/6/2019 của Quốc hội (khóa XIV); Luật số 07/2022/QH15 ngày 16/6/2022 của Quốc hội (khóa XV)… 

Trên cơ sở các nghị quyết của Trung ương và các luật của Quốc hội, Chính phủ đã xây dựng và ban hành các chính sách, chiến lược, kế hoạch khoa học – công nghệ nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trên phạm vi cả nước. Các chương trình, đề án hỗ trợ khởi nghiệp mà Chính phủ giao cho các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị xã hội chủ trì, như: Đề án 844 hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, Đề án 939hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp, Đề án 1665 hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp, Đề án 897 hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp… được triển khai tích cực, có sự phối hợp, liên kết với nhau hướng tới mục tiêu chung là xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo phát triển bền vững, toàn diện5.

Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam đến nay đã có đầy đủ các thành phần từ cá nhân/tổ chức khởi nghiệp sáng tạo, nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức hỗ trợ (cơ sở ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh), công viên nghiên cứu, trường đại học, mạng lưới các huấn luyện viên/tư vấn, các cơ sở hỗ trợ nghiên cứu khởi nghiệp sáng tạo tại các trường đại học, viện nghiên cứu… Nòng cốt trong đó là Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) được thành lập theo Quyết định số 1269/QĐ-TTg ngày 02/10/2019 của Thủ tướng Chính phủ. Sau 5 năm thành lập, NIC đã thúc đẩy dòng vốn đầu tư vào hệ sinh thái đổi mới sáng tạo của Việt Nam với tổng số vốn cam kết cho các startup Việt Nam trong giai đoạn 2023 – 2025 là 1,5 tỷ USD đến từ 41 quỹ đầu tư của Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Indonesia, Hoa Kỳ và Việt Nam6.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, đổi mới và hoàn thiện công nghệ, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF). Sau 5 năm hoạt động, Quỹ đã tiếp nhận trên 1.000 ý tưởng đổi mới công nghệ từ các doanh nghiệp; huy động trên 782 tỷ đồng cho các dự án đang thực hiện; đổi mới, cải tiến và phát triển 50 công nghệ, giải pháp, dây chuyền và thiết bị được ứng dụng trực tiếp tại các doanh nghiệp, mang lại hiệu quả kinh tế cao…7. Cùng với đó, để tôn vinh các nhà khoa học có đóng góp tích cực cho sự nghiệp đổi mới sáng tạo, những nhà sáng lập Việt Nam đã thành lập Quỹ VinFuture (năm 2020) với mong muốn lấy Khoa học và Công nghệ làm nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế và con người. 

Với triết lý lấy doanh nghiệp làm trung tâm của hoạt động đổi mới sáng tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ đã ban hành nhiều biện pháp tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp thông qua Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Phát triển Khoa học và công nghệ quốc gia… Đến nay, trên cả nước đã hình thành được nhiều đơn vị hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo với nhiều mô hình phong phú từ khu vực tư nhân, khu vực công và cả các tổ chức quốc tế; 60/63 tỉnh, thành phố đã phê duyệt kế hoạch triển khai Đề án 844 tại địa phương; khoảng 20 địa phương đã và đang hình thành các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo; khoảng 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, 208 quỹ đầu tư, 84 vườn ươm, 35 tổ chức thúc đẩy kinh doanh, 20 trung tâm khởi nghiệp sáng tạo; hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam hiện đứng thứ 56/100 quốc gia; Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh lọt vào top 200 thành phố khởi nghiệp sáng tạo trên toàn cầu. Theo Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2024 của Việt Nam xếp hạng 44/133 quốc gia (tăng 2 bậc so với năm 2023, tăng 4 bậc so với năm 2022) và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 của Liên hiệp quốc tăng 15 bậc, từ vị trí 86/193 quốc gia lên vị trí 71/1938.

Để theo sát tiến trình đổi mới sáng tạo, nhất là đối với các doanh nghiệp, ngày 20/5/2024, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết định số 1005/QĐ-BKHCN về điều tra Đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp năm 2024. Cuộc điều tra thu thập thông tin của 2.000 doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa trở lên trên phạm vi toàn quốc, hoạt động trong các ngành: công nghiệp chế biến, chế tạo và khai khoáng với nội dung tổng hợp về khoa học và công nghệ gồm: tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo; chi cho đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp; số doanh nghiệp có Quỹ phát triển khoa học và công nghệ; số doanh nghiệp có bộ phận nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ…

Bên cạnh những kết quả đạt được về đổi mới sáng tạo thời gian qua, trên thực tế vẫn còn những hạn chế trong QLNN ở lĩnh vực này: 

Thứ nhất, nhận thức của cán bộ, công chức về hoạt động đặc thù của khoa học – công nghệ, về tính rủi ro, độ trễ cũng như tầm quan trọng của khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo đối với sự phát triển kinh tế – xã hội ở các cấp, các ngành chưa đầy đủ, nhất quán, dẫn đến thiếu sự quan tâm đúng mức trong QLNN về đổi mới sáng tạo. Chẳng hạn, khi xây dựng và thực hiện chính sách đổi mới sáng tạo hay trích lập quỹ khoa học – công nghệ từ nguồn thu nhập trước thuế, các cơ quan nhà nước vẫn dựa trên quan điểm coi doanh nghiệp như các tổ chức khoa học – công nghệ công lập khiến việc áp dụng chính sách này trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Hiện tượng này cũng xảy ra với các doanh nghiêp, bởi có tới 75% doanh nghiệp được khảo sát đã khẳng định việc chưa được nhận thức đầy đủ về vai trò của đổi mới sáng tạo dẫn đến động lực hiện thực hóa chưa rõ ràng9.

Thứ hai, hệ thống thể chế về đổi mới sáng tạo còn những bất cập, trong đó chính sách, pháp luật về khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo hiện hành còn chồng chéo, thiếu đồng bộ với các chính sách thuộc các lĩnh vực khác, chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo, chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Thể chế, chính sách phát triển thị trường khoa học công nghệ còn hạn chế, thiếu đồng bộ, chưa khuyến khích đầu tư mạo hiểm vào các dự án khoa học – công nghệ, sản xuất thử nghiệm các sản phẩm khoa học – công nghệ mới; chưa tạo sự gắn kết, vận hành theo cơ chế đặt hàng giữa doanh nghiệp và tổ chức nghiên cứu khoa học – công nghệ. Do thiếu tính cụ thể mà các doanh nghiệp hưởng ứng chính sách còn mang tính phong trào như số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có mức tăng trưởng cao nhưng chất lượng hoạt động còn rất hạn chế. Thiếu cơ chế mở, linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác, gắn kết giữa các tổ chức khoa học – công nghệ công lập với doanh nghiệp, để tạo ra các sản phẩm thương mại hóa dựa trên kết quả nghiên cứu…

Thứ ba, nguồn lực tài chính dành cho phát triển khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo gặp không ít khó khăn. Báo cáo Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở Việt Nam năm 2023 cho thấy, mức đầu tư vào R&D so với GDP của Hệ sinh thái Việt Nam vẫn còn thấp và có xu hướng giảm. Năm 2023, con số được ghi nhận về mức đầu tư R&D so với GDP của Việt Nam là 0,4%, thấp hơn mức trung bình của khu vực Đông Nam Á, xếp hạng 66 toàn cầu, giảm 7 bậc so với năm trước. Trong khi đó, các nước trong khu vực đã có sự gia tăng về nguồn vốn đầu tư vào hoạt động này, như: Thái Lan 1,3% (tăng 4 hạng), Singapore 2,2% (tăng 3 hạng), Malaysia 1%. Nhìn vào con số này, có thể nhận thấy điểm tương đồng giữa việc đầu tư vào R&D của một quốc gia so với mức độ phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp của quốc gia đó10

Thứ tư, nhiều bộ, ngành, địa phương có các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, tổ chức các ngày hội khởi nghiệp. Có khi một start-up được đến mấy bộ, ngành khác nhau trao tặng, hỗ trợ. Tức là có sự mất cân đối giữa việc tổ chức nhiều hoạt động liên quan đến thúc đẩy, gọi vốn, nhưng gần như không có hoạt động nào liên quan đến kết nối để tạo ra đầu vào từ các kết quả nghiên cứu ở trường đại học.

Thứ năm, do sự khác biệt giữa các địa phương về quy mô kinh tế-xã hội, dân số, đất đai, cơ cấu kinh tế, định hướng phát triển… nên các địa phương cần và phải lựa chọn mô hình phát triển kinh tế – xã hội dựa trên khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo khác nhau, phù hợp với bối cảnh, điều kiện, đặc điểm riêng. Điều này làm cho các địa phương không nắm được thực trạng mô hình phát triển kinh tế – xã hội dựa trên khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo của địa phương. 

Qua thực tế cho thấy, các địa phương còn lúng túng trong việc tham gia thực hiện nghị quyết của Chính phủ về cải thiện chỉ số GII cấp quốc gia, do nhiều số liệu thống kê tương tự ở cấp địa phương không có, đồng thời phương pháp đánh giá theo quy chuẩn quốc tế còn mới lạ nên có những điểm không phù hợp với cấp địa phương của Việt Nam.

4. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đổi mới sáng tạo

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, công chức, các doanh nhân, nhà khoa học, người dân thấm nhuần về những triết lý đổi mới sáng tạo theo các nghị quyết của Đảng, quy phạm pháp luật và quy tắc đạo đức xã hội trong thời đại mới. Khơi dậy tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Yêu cầu các bên liên quan đến đổi mới sáng tạo, nhất là cơ quan nhà nước, mỗi cán bộ, công chức nêu cao tính trách nhiệm, công khai, minh bạch trong quản lý đổi mới sáng tạo.

Hai là, hoàn thiện thể chế, chính sách và các quy định hiện hành về đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, tháo gỡ các rào cản trong chính sách, pháp luật về kinh tế, tài chính, đầu tư, đấu thầu… Không chỉ nghiên cứu xây dựng thể chế tháo gỡ các vướng mắc về hành lang pháp lý trong quản lý mà còn khuyến khích các đơn vị nghiên cứu chuyển giao kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp. Khuyến khích các đại học xây dựng mô hình phát triển doanh nghiệp, hỗ trợ các cựu sinh viên và xã hội để đại học thực sự là nơi thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và doanh nghiệp khởi nghiệp.

Ba là, xây dựng cơ chế, chính sách đột phá để thu hút, trọng dụng các nhà khoa học, chuyên gia giỏi trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động đổi mới sáng tạo. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện để các sản phẩm khoa học – công nghệ trở thành hàng hóa, nhanh chóng chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất – kinh doanh. 

Bốn là, cùng với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đổi mới sáng tạo cần xác định các ngành, lĩnh vực trọng tâm để đầu tư đổi mới sáng tạo. QLNN về hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia phải được đánh giá thông qua bộ chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) và bộ chỉ số đổi mới sáng tạo địa phương (PII) và theo cấp độ của quốc gia, vùng.

Năm là, Chính phủ và chính quyền địa phương quan tâm nghiên cứu thành lập Quỹ đầu tư mạo hiểm, sử dụng ngân sách Nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp khoa học – công nghệ và khởi nghiệp sáng tạo. Việc mạnh dạn dùng ngân sách nhà nước tạo “vốn mồi “sẽ tiếp thêm sức mạnh cho các doanh nghiệp khoa học – công nghệ tạo ra những công nghệ mới, mô hình mới. Những thử nghiệm có thể thất bại, nhưng là những thử nghiệm vô cùng quan trọng, đúc rút thành bài học để thúc đẩy công nghệ phát triển. Theo kinh nghiệm của các nước, đổi mới sáng tạo không chỉ ở cấp quốc gia, các cấp, ngành mà còn ở cấp vùng, cấp địa phương, đến từ doanh nghiệp và người dân… Cũng cần đánh giá đầy đủ, toàn diện để có hướng đi trọng tâm, trọng điểm hơn trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thay vì hô hào khẩu hiệu mang tính phong trào.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế thông qua các nguồn lực quý giá từ người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia, doanh nghiệp, tổ chức trên thế giới góp phần thúc đẩy hoạt động chuyển giao, ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trước tiên, cần hợp tác tổ chức các chương trình đào tạo, hội thảo hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo của Việt Nam; xây dựng năng lực cho hệ thống đổi mới sáng tạo như quản lý công nghệ, lãnh đạo đổi mới sáng tạo, quản trị tổ chức và các nội dung phù hợp theo định hướng ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo đối với ngành, lĩnh vực hay sản phẩm dịch vụ.

5. Kết luận

Kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nền kinh tế – xã hội nước ta đã từng bước bắt kịp xu thế đổi mới sáng tạo của khu vực và thế giới. Hệ thống chính sách về đổi mới sáng tạo ngày càng đồng bộ tạo động lực trực tiếp cho các chủ thể trong việc thu hút nguồn lực, mở rộng hợp tác nghiên cứu, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ, nhất là các cá nhân và tổ chức thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Không chỉ có vậy, các cơ quan QLNN và đội ngũ cán bộ, công chức ngày càng chuyên nghiệp trong quản lý đổi mới sáng tạo, giúp từng bước gỡ bỏ những rào cản về tư duy, làm gương dẫn dắt và tạo dựng môi trường thuận lợi cho việc thực hiện những mục tiêu QLNN về đổi mới sáng tạo. Với thực tế đang diễn ra và những giải pháp đề xuất, hy vọng QLNN về đổi mới sáng tạo ở Việt Nam sẽ gặt hái nhiều thành công.

Chú thích:
1. Báo cáo của Cục Công nghiệp Công nghệ thông tin và Truyền thông, Bộ Thông tin và Truyền thông ngày 13/5/2024. https://mic.gov.vn/tai-lieu-hop-bao-thuong-ky-thang-5-2024-cua-bo-thong-tin-va-truyen-thong-197240513140226688.htm
2. OECD (2018). Hướng dẫn của OECD về thẩm định hành vi kinh doanh có trách nhiệm, OECD Due Diligence Guidance for Responsible Business Conduct 
3. Quốc hội (2013, 2018). Khoản 16 Điều 3 Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 (sửa  đổi, bổ sung năm 2018).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIITập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 43, 46, 110, 203 – 204, 223, 206 – 207, 138, 267, 279.
5. Thủ tướng Chính phủ (2017). Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 về việc phê duyệt Đề án Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025. 
6. NIC và Do Ventures (2023). Báo cáo đổi mới sáng tạo và đầu tư công nghệ Việt Nam 2023, tr. 17 – 18.
7. Hội thảo “Thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp và Định hướng của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia giai đoạn 2021 – 2025” do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức ngày 07/12/2021. 
8. Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (Global Innovation Index 2024 – GII) năm 2024 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) công bố tại Thụy Sĩ ngày 26/9/2024. 
9, 10. BambuUP (2024). Báo cáo Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mở Việt Nam 2023, Cuốn 3: Thế giới phẳng của đổi mới sáng tạo (phát hành ngày 11/01/2024).