Ngô Tuấn Phương
NCS của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một tổng thể các quan điểm, nguyên tắc và phương pháp tổ chức, giáo dục nhằm tập hợp tối đa sức mạnh của các tầng lớp trong xã hội nhằm kết nối sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế để đấu tranh vì độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc mang tính đặc trưng và sâu sắc, có giá trị trường tồn và đã được Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, góp phần tạo nên những thắng lợi to lớn cho dân tộc. Bài viết trên cơ sở phân tích nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc để từ đó gợi mở một số giải pháp, góp phần phát huy hơn tư tưởng đại đoàn kết của Người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: Tổ quốc Việt Nam; phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh; giá trị tư tưởng; đại đoàn kết dân tộc; xây dựng; bảo vệ.
1. Đặt vấn đề
Đại đoàn kết dân tộc là một di sản quý báu của dân tộc Việt Nam, là sức mạnh bền bỉ, xuyên suốt trong quá trình dựng nước và giữ nước của Nhân dân ta; là biểu tượng của tinh thần đoàn kết, lòng yêu nước, sự kiên cường của dân tộc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã thấm sâu vào lòng dân, khơi dậy sức mạnh vô biên trong toàn thể nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo hay giai cấp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận dân tộc thống nhất, các tầng lớp nhân dân cùng chung sức, đồng lòng, đã làm nên những thắng lợi lịch sử vẻ vang trong Cách mạng Tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, thống nhất và tạo nền tảng để xây dựng một đất nước tự do, phát triển vững mạnh.
Ngày nay, truyền thống đại đoàn kết tiếp tục là động lực quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Được tiếp sức từ những thành tựu to lớn của gần 40 năm đổi mới, đất nước không ngừng phát triển, khẳng định tiềm lực vững mạnh và vị thế trên trường quốc tế. Những bước tiến này là thành quả của sự nỗ lực không ngừng nghỉ của toàn Đảng, toàn dân, là minh chứng sống động cho sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Từ đó, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng trở nên rõ ràng hơn, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, khẳng định đại đoàn kết chính là yếu tố quyết định, là chìa khóa cho một Việt Nam phát triển bền vững và giàu mạnh.
2. Những nội dung cơ bản về tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1) Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng Việt Nam.
Trong hành trình hơn 30 năm tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra bài học sâu sắc từ thực tiễn cách mạng trong và ngoài nước. Đó là thành công của cách mạng phụ thuộc vào quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Theo Người, tinh thần yêu nước là chưa đủ, phải tổ chức và quy tụ được mọi lực lượng, tạo sức mạnh tổng hợp vì mục tiêu chung. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược nhất quán, xuyên suốt mọi giai đoạn cách mạng và việc tập hợp lực lượng đòi hỏi phải có những chính sách linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng, hoàn cảnh. Người khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là thủ đoạn chính trị”1 và coi đoàn kết là yếu tố quyết định thành bại của cách mạng. Tư tưởng này đã được thực hiện thông qua các mặt trận, như: Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã góp phần làm nên các thắng lợi lịch sử, gồm: Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp và công cuộc xây dựng đất nước.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, khi dân tộc đoàn kết, mọi khó khăn đều có thể vượt qua, đất nước sẽ phát triển bền vững. Ngược lại, chia rẽ nội bộ sẽ dẫn đến suy yếu, nguy cơ mất nước tăng cao. Vì vậy, trong mọi hoàn cảnh, nhất là giai đoạn khó khăn, tinh thần đoàn kết phải được đặt lên hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”2. Đó là chân lý bất biến và là nền tảng để dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập, tự do và tiến lên xây dựng một đất nước hòa bình, giàu mạnh.
(2) Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết là cội nguồn sức mạnh, là nền tảng của mọi thắng lợi. Người luôn nhấn mạnh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là phương pháp tập hợp lực lượng mà còn là mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và cả dân tộc. Đảng phải lấy đại đoàn kết làm điểm xuất phát, sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi đường lối, chủ trương và hoạt động thực tiễn. Trong buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Hồ Chí Minh khẳng định mục tiêu cao cả: “Đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”3. Đồng thời, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải gần gũi, lắng nghe và tổ chức quần chúng, bởi sức mạnh cách mạng bắt nguồn từ quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cách mạng muốn thành công không chỉ cần đường lối đúng mà còn phải cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, phương pháp phù hợp để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là thực lực cách mạng, là sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong mọi giai đoạn lịch sử, từ đấu tranh giành độc lập đến thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng này thể hiện chiều sâu giá trị nhân văn khi dung hòa ý Đảng với lòng dân, biến những khát vọng tự phát của quần chúng thành hành động tự giác, có tổ chức. Người khẳng định: “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”4. Vì vậy, đại đoàn kết không chỉ là nhiệm vụ trước mắt mà còn là kim chỉ nam lâu dài, bảo đảm thành công cho sự nghiệp cách mạng, vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân và hạnh phúc cho con người.
(3) Về lực lượng của đại đoàn kết dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là nguyên tắc cốt lõi, là sức mạnh vô địch để thực hiện cách mạng. Người nhấn mạnh: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”5. Như vậy, biên độ lực lượng của khối đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở nền tảng liên minh công, nông, trí thức mà còn được mở rộng tới tất cả những ai thật thà tán thành hòa bình, độc lập, dân chủ, kể cả những người từng đối lập nhưng đã quay về với chính nghĩa. Tư tưởng này thúc đẩy sự gắn kết quần chúng trên nền tảng giai cấp công nhân và bao quát mọi tầng lớp, mọi dân tộc, mọi tôn giáo, cả những người lầm đường lạc lối nhưng biết sửa sai.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao Nhân dân như chủ thể của khối đại đoàn kết, là nguồn sức mạnh vô tận để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn kết không chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu xuyên suốt, là nền tảng vật chất và tinh thần cho mọi thắng lợi của cách mạng. Người khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”6, “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”7. Theo đó, đoàn kết phải được tổ chức chặt chẽ, xây dựng trên tinh thần chân thành, bao dung, không bỏ sót bất kỳ lực lượng nào sẵn sàng phục vụ Tổ quốc và Nhân dân.
(4) Về hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức tổ chức cốt lõi để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc, một liên minh chính trị với sứ mệnh thu hút mọi tổ chức yêu nước, đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: “Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước”8. Mặt trận là công cụ thực hiện đoàn kết và là biểu tượng của sức mạnh thống nhất, dựa trên tinh thần hợp tác và ý chí chung của toàn dân.
Trong Mặt trận dân tộc thống nhất, sự đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc anh em và giữa đồng bào lương với các tôn giáo khác được thực hiện theo phương châm “cầu đồng tồn dị”, là sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng. Chính cái chung là nền tảng để kết nối những cái khác biệt, làm giảm sự chia rẽ, khơi dậy tinh thần đoàn kết bền chặt. Từ đó, mọi thành phần xã hội có thể sống hòa thuận, cùng chung tay xây dựng một đất nước độc lập, tự do và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Khối đoàn kết này còn là biểu tượng của tinh thần hợp lực dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng luôn nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng không phải là quyền được thừa nhận mà là kết quả của hành động thực tiễn và sự đồng thuận của quần chúng nhân dân. Chính từ quá trình đấu tranh và công tác hằng ngày, khi Nhân dân nhận thức được sự đúng đắn của chính sách và năng lực lãnh đạo của Đảng, Đảng mới giành được sự thừa nhận tất yếu, hiển nhiên về vai trò lãnh đạo của mình.
Ngay từ những ngày đầu, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của Mặt trận dân tộc thống nhất như một công cụ hiệu quả trong việc tập hợp các lực lượng yêu nước, cả trong và ngoài nước, vào một khối thống nhất để phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng đã sáng tạo ra những tổ chức quần chúng phù hợp, như: Hội Phản đế đồng minh (năm 1930), Mặt trận Dân chủ (năm 1936), Mặt trận Nhân dân phản đế (năm 1939), Mặt trận Việt Minh (năm 1941)… với mục tiêu đoàn kết các lực lượng yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, khi đất nước được thống nhất, nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành trọng tâm và quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng Cộng sản Việt Nam coi là yếu tố then chốt. Song song với việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra quyết định thống nhất các đoàn thể và các tổ chức Mặt trận nhân dân, bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam. Đại hội thống nhất các tổ chức Mặt trận toàn quốc diễn ra từ ngày 31/01 – 04/02/1977 tại TP. Hồ Chí Minh và quyết định lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đánh dấu sự trưởng thành và phát triển mạnh mẽ của khối đại đoàn kết dân tộc. Đây là bước ngoặt quan trọng, mở ra một giai đoạn mới trong hoạt động của Mặt trận và các tổ chức quần chúng, góp phần to lớn vào tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
3. Giá trị tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc mang giá trị sâu sắc và toàn diện, là kim chỉ nam cho việc củng cố khối đoàn kết dân tộc trong mọi giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay. Những quan điểm này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự gắn kết toàn dân, đồng thời gợi mở các phương pháp để thực hiện một cách hiệu quả và bền vững.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã trở thành yếu tố nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của đất nước. Để đạt được mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần đặt nhiệm vụ này lên hàng đầu, xem đây là yếu tố cốt lõi trong mọi chính sách và chiến lược phát triển. Trong thực tiễn, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đóng vai trò trung tâm trong việc quy tụ, phát huy sức mạnh của các tổ chức thành viên, đưa khối đại đoàn kết dân tộc trở thành động lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ hai, trong bối cảnh xã hội ngày càng phức tạp, việc mở rộng và đa dạng hóa khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một yêu cầu tất yếu. Tư tưởng Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc tập hợp mọi lực lượng, bất kể sự khác biệt giữa các thành phần giai cấp để đứng vào một khối thống nhất vì lợi ích chung của dân tộc. Mặt trận Tổ quốc cần trở thành biểu tượng sống động của sự đoàn kết, vừa thống nhất về mục tiêu, vừa linh hoạt trong tổ chức và hoạt động.
Thứ ba, nguyên tắc “cầu đồng, tồn dị” trong tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chìa khóa trong việc giải quyết các mâu thuẫn và khác biệt trong xã hội hiện đại. Tư tưởng này đòi hỏi sự tôn trọng lẫn nhau, đồng thời phát hiện và khơi dậy những giá trị chung làm nền tảng cho sự đồng thuận. Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, tinh thần dân chủ và pháp quyền cần được thực thi triệt để nhằm bảo đảm mọi lực lượng đều có tiếng nói trong khối đại đoàn kết. Đây cũng là cách để hóa giải những mâu thuẫn, khơi dậy sự đoàn kết trong đa dạng, góp phần xây dựng một xã hội hài hòa, phát triển.
4. Phát huy giá trị đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một chiến lược, mục tiêu lâu dài, xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Sau đại thắng Mùa xuân năm 1975, đất nước bước vào giai đoạn hàn gắn và bảo vệ Tổ quốc. Sự thay đổi của tình hình trong và ngoài nước đã đặt ra cho nước ta yêu cầu xây dựng một khối đại đoàn kết dân tộc mới. Từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta luôn khẳng định vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong tiến trình phát triển đất nước, coi nhân dân là lực lượng trung tâm và đề cao mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng và Nhân dân. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”9. Tinh thần yêu nước và ý chí tự cường là nền tảng vững chắc, trong khi đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh to lớn, giúp dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử thách, bảo vệ thành quả cách mạng và phát triển đất nước. Khát vọng phồn vinh và hạnh phúc là mục tiêu chung, là động lực thôi thúc mỗi công dân đóng góp vào sự nghiệp chung, đồng thời xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và hiện đại.
Nền tảng của đại đoàn kết không chỉ là sự liên kết giai cấp mà còn mở rộng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân, cả trong nước và quốc tế với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập và phát triển bền vững. Để sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân có thể phát huy tối đa, Đảng ta đã cụ thể hóa các quan điểm này thành những nghị quyết, chỉ thị và kết luận phù hợp với tình hình thực tế, nhu cầu và quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, như: Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết đã nhấn mạnh: “Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển”10. Những định hướng này đã thể hiện quyết tâm của Đảng trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh, đồng thời mở ra những cơ hội mới cho mọi tầng lớp nhân dân, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
5. Giải pháp
Để hiện thực hóa di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, các cơ quan, đơn vị, địa phương cần xây dựng kế hoạch hành động cụ thể, với quyết tâm cao. Chương trình hành động phải khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường và sức mạnh đoàn kết, phục vụ lợi ích của Nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, từ vĩ mô đến công việc hằng ngày, đều phải vì lợi ích người dân, giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Vì vậy, trong thời gian tới, cần tiếp tục thực hiện hiệu quả các nội dung trọng tâm sau:
Một là, tăng cường củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xem đây là yếu tố cốt lõi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Điều này đòi hỏi các chủ thể thực hiện đại đoàn kết dân tộc cần sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cần kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và chủ động ngăn chặn từ sớm các nguy cơ chiến tranh, xung đột. Đồng thời, việc phát hiện, xử lý các yếu tố bất lợi, đẩy lùi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch là nhiệm vụ xuyên suốt.
Hai là, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm nhằm bảo đảm sự tham gia tích cực của toàn dân vào quá trình phát triển đất nước. Điều này đòi hỏi cần xây dựng cơ chế minh bạch, thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng” và khuyến khích tinh thần sáng tạo, ý chí tự cường dân tộc. Đội ngũ cán bộ cần được xây dựng với tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu, gần dân, trọng dân, tạo niềm tin và sự đồng thuận trong nhân dân.
Ba là, xem việc rà soát, hoàn thiện các chính sách phát triển vùng dân tộc, tôn giáo là cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội gắn với bảo đảm an ninh, trật tự. Các phong trào thi đua yêu nước như: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” cần được đổi mới sáng tạo, gắn với phát triển bền vững, nhằm lan tỏa giá trị thiết thực trong mọi tầng lớp nhân dân.
Bốn là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần giữ vai trò trung tâm trong việc kết nối các lực lượng xã hội, thúc đẩy sức mạnh tổng hợp và sáng tạo những mô hình hợp tác hiệu quả. Đặc biệt, cần mở rộng sự tham gia của người dân vào xây dựng chính sách, quản lý xã hội và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các nhóm yếu thế. Đây chính là nền tảng để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, hiện đại và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, công tác tuyên truyền và vận động phải trở thành chiến lược dài hạn, lan tỏa tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết đến mọi tầng lớp nhân dân, thúc đẩy sự tự giác bảo vệ kỷ cương xã hội, phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Các giải pháp đồng bộ này sẽ tạo nền tảng vững chắc, khẳng định sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế.
6. Kết luận
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nền tảng tạo nên sức mạnh vô cùng to lớn và luôn được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo và linh hoạt, thể hiện rõ trong các chính sách, nghị quyết, phản ánh sự hiểu biết sâu sắc về tình hình, yêu cầu thực tiễn của đất nước. Việc tiếp tục phát huy và làm sâu sắc thêm giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới là nhiệm vụ chính trị then chốt, là hành động thiết thực, quyết định sự phát triển bền vững của đất nước. Trên nền tảng vững chắc ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã liên tục đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tạo dựng những thắng lợi lịch sử trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đồng thời tiếp tục hướng tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh, tiếp tục phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Chú thích:
1, 5. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 244.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 119.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 49.
4, 6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 589, 453.
7. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 179.
8. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 672.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 110.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) (2003). Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) (2008). Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28/01/2008 về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) (2023). Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh – nhìn từ Đại hội XIII của Đảng. https://www.quanlynhanuoc.vn/2021/06/01/dai-doan-ket-dan-toc-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-nhin-tu-dai-hoi-xiii-cua-dang/.
5. Học và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. https://www.quanlynhanuoc.vn/2020/03/29/hoc-va-lam-theo-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-dai-doan-ket-dan-toc/.