PGS.TS. Nguyễn Hải Thanh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn)– Bài viết phân tích tư tưởng lãnh đạo của C. Mác, nhấn mạnh vai trò của giai cấp lãnh đạo đại diện cho lợi ích chung, lãnh đạo dựa trên sự hiểu biết thực tiễn và thúc đẩy sự tiến bộ xã hội; nhấn mạnh vai trò lãnh đạo dựa trên cơ chế tập thể dân chủ, Đảng Cộng sản là tổ chức lãnh đạo trung tâm của giai cấp vô sản. Kế thừa tư tưởng lãnh đạo của C. Mác gắn với phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền, cơ chế tập thể. Trong bối cảnh mới, vận dụng sáng tạo tư tưởng lãnh đạo của C. Mác bằng cách phát huy dân chủ, khuyến khích đổi mới sáng tạo, ứng dụng khoa học – công nghệ, thích ứng linh hoạt gắn với giữ gìn bản sắc văn hoá của Việt Nam. Tư tưởng C. Mác tiếp tục là nền tảng lý luận để Việt Nam xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, đáp ứng mục tiêu phát triển đất nước.
Từ khoá: Bối cảnh mới của Việt Nam; kế thừa; tư tưởng lãnh đạo của C. Mác; lãnh đạo; vận dụng.
1. Đặt vấn đề
Tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo gắn bó chặt chẽ với lý thuyết của C. Mác về mối quan hệ giữa giai cấp, quyền lực, sự phát triển lịch sử xã hội. Mặc dù trong các tác phẩm được xuất bản C. Mác không đề cập trực tiếp và cụ thể đến vấn đề lãnh đạo như một lý thuyết độc lập. Tuy nhiên, tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo có thể được tổng hợp, luận giải từ những nguyên lý cơ bản trong triết học, chính trị học, kinh tế học. Những quan điểm của C. Mác về vai trò lãnh đạo, cách thức tổ chức và vận hành bộ máy lãnh đạo gắn liền với lợi ích của giai cấp và Nhân dân lao động đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều phong trào cách mạng trên thế giới. Tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo không chỉ mang giá trị lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Sự kế thừa, vận dụng tư tưởng lãnh đạo của C. Mác có thể tạo nền tảng vững chắc cho cách mạng tại các quốc gia theo chủ nghĩa C. Mác, nhất là trong bối cảnh mới – đổi mới, hội nhập và phát triển.
Tại Việt Nam, tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo đã được kế thừa, phát triển và vận dụng một cách sáng tạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập, xây dựng và phát triển đất nước. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã xác định chủ nghĩa Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội VII (1991), Đảng khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”1. Định hướng chính trị của Đảng tiếp tục được tái khẳng định trong các văn kiện qua các kỳ đại hội của Đảng. Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”2. Nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng sáng tạo tư tưởng lãnh đạo của C. Mác còn góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang đối diện với nhiều thách thức từ quá trình hội nhập quốc tế, chuyển đổi kinh tế và phát triển xã hội. Vì vậy, nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng lãnh đạo của C. Mác càng trở nên cấp thiết. Trên cơ sở đó, bài viết nhằm làm rõ những nội dung cốt lõi trong tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo, làm rõ sự kế thừa và vận dụng tư tưởng lãnh đạo của C. Mác vào bối cảnh của Việt Nam, khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác trong bối cảnh đổi mới và hội nhập của Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác, khẳng định sự phát triển nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
2. Tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo
Một là, lãnh đạo là biểu hiện quyền lực của giai cấp thống trị.
Theo C. Mác, trong xã hội phân chia giai cấp, lãnh đạo thường đại diện cho lợi ích của giai cấp thống trị, lãnh đạo là biểu hiện quyền lực của giai cấp thống trị. Trong xã hội tư bản, giai cấp tư bản nắm quyền kiểm soát kinh tế đồng thời nắm giữ và chi phối chính trị, tư tưởng, pháp luật,… để duy trì địa vị. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác chỉ ra: “Giai cấp nào muốn nắm quyển thống trị – ngay cả khi quyển thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản – thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biếu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu”3.
Cơ sở quyền lực lãnh đạo bắt nguồn từ sự kiểm soát kinh tế, bộ phận nào sở hữu tư liệu sản xuất sẽ kiểm soát quyền lực, nắm giữ vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo trong xã hội tư bản thường bị bóp méo bởi lợi ích giai cấp, quyền lực lãnh đạo không phục vụ, không bảo vệ lẽ phải mà bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, ngăn cản sự đấu tranh giải phóng giai cấp. Bằng lý luận và thực tiễn C. Mác chỉ ra, trong các giai đoạn cách mạng, quá trình chuyển từ giai cấp này sang giai cấp khác đều thông qua lãnh đạo, khi mâu thuẫn giai cấp gia tăng, giai cấp vô sản thông qua tổ chức và đấu tranh giải phóng giai cấp có thể trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, lật đổ giai cấp thống trị, thiết lập chế độ xã hội mới không còn áp bức giai cấp. Giai cấp vô sản khi giành được quyền lãnh đạo sẽ thiết lập nhà nước kiểu mới, nhà nước chuyên chính vô sản, xóa bỏ chế độ tư bản, giải phóng toàn thể nhân loại khỏi sự bóc lột giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lãnh đạo từ quyền lực cứng chuyển thành quyền lực mềm, trở thành tự nguyện của cộng đồng.
Hai là, lãnh đạo cách mạng và vai trò của giai cấp vô sản.
Giai cấp vô sản là bộ phận lao động không sở hữu tư liệu sản xuất mà phải bán sức lao động, trong khi đó giai cấp tư sản sở hữu tư liệu sản xuất, thu lợi từ giá trị thặng dư mà giai cấp vô sản tạo ra dẫn đến mâu thuẫn không thể điều hòa trong xã hội tư bản. Giải quyết mâu thuẫn đó chỉ có thể là giai cấp vô sản, lực lượng cách mạng duy nhất có thể lật đổ chế độ tư bản, xây dựng xã hội cộng sản: “Chỉ có những người vô sản, nhiệt tình hừng hực vì nhiệm vụ xã hội mới mà họ có nhiệm vụ thực hiện cho toàn thể xã hội, tức là thủ tiêu tất cả các giai cấp và sự thống trị giai cấp mới là những người có thể đập tan nhà nước, công cụ của sự thống trị giai cấp đó, đập tan quyền lực chính phủ tập trung và có tổ chức đó, cái quyền lực do tiếm đoạt mà trở thành chủ nhân của xã hội, chứ không phải là đầy tớ của xã hội”4.
Trong xã hội tư bản, giai cấp vô sản bị bóc lột nặng nề, chịu áp bức về kinh tế, bị tước đoạt quyền lực chính trị, văn hóa. Mâu thuẫn này thúc đẩy giai cấp vô sản ý thức về địa vị phải trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc cách mạng lật đổ hệ thống tư bản, xóa bỏ mọi hình thức bóc lột, bất công, phá bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới trên sở hữu công tư liệu sản xuất, tạo ra bình đẳng thực sự trong xã hội. Tuy nhiên, chỉ khi giai cấp vô sản đạt đến ý thức giai cấp mới có thể thiết lập chế độ chuyên chính vô sản, đây là cơ sở để chuyển từ “giai cấp tự nó”, chỉ tồn tại như một tập hợp lao động bị bóc lột thành “giai cấp vì nó”, nhận thức và hành động với mục tiêu cách mạng. Khi đó, quyền lực thuộc về số đông lao động, giai cấp vô sản được tổ chức thành lực lượng cách mạng, tiến tới cách mạng vô sản, con người được giải phóng hoàn toàn khỏi sự bóc lột, áp bức.
Trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen nhấn mạnh “Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại”! Đảng Cộng sản được C. Mác xem như tổ chức tiên phong của giai cấp vô sản có nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cách mạng, tổ chức phong trào công nhân với nhiệm vụ chống lại tư tưởng sai lệch cản trở cách mạng. C. Mác đề xuất, sau cách mạng giai cấp vô sản cần thiết lập chuyên chính vô sản, duy trì quyền lực của đa số lao động, đàn áp sự phản kháng của giai cấp tư sản cũ, xóa bỏ các điều kiện dẫn đến bóc lột giai cấp, xóa bỏ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do đó giai cấp vô sản phải đoàn kết, trở thành lực lượng lãnh đạo trong cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, giai cấp vô sản không chỉ giải phóng chính mình mà còn giải phóng toàn nhân loại khỏi mọi hình thức bóc lột.
Ba là, lãnh đạo tập thể và dân chủ.
C. Mác phản đối lãnh đạo độc đoán, tập quyền vào cá nhân hoặc nhóm nhỏ. Trong xã hội có giai cấp, quyền lực độc đoán thường được sử dụng bởi giai cấp thống trị, quyền lực bị tách rời khỏi quần chúng lao động sẽ trở thành công cụ phục vụ lợi ích riêng thay vì đại diện cho ý chí chung, làm suy giảm tiềm năng sáng tạo của giai cấp lao động. C. Mác phê phán hiện tượng quan liêu, quyền lực lãnh đạo bị bóp méo, nếu quyền lực trong chuyên chính vô sản rơi vào tay một nhóm nhỏ sẽ trở thành công cụ phục vụ lợi ích cá nhân hoặc nhóm đặc quyền, thậm chí phản bội mục tiêu cách mạng, tầng lớp đặc quyền sẽ tái tạo bất công và bóc lột, đi ngược lại bản chất của chế độ vô sản. Quan liêu còn là mầm mống nảy sinh tha hóa, bộ máy lãnh đạo dễ biến chất, xa rời mục tiêu phục vụ Nhân dân: “Nảy sinh ra từ xã hội, nhưng đứng trên xã hội và ngày càng tách rời khỏi xã hội”5.
Lãnh đạo tập thể và dân chủ bảo đảm sự tham gia đông đảo của người dân. C. Mác đề xuất biện pháp để hạn chế quan liêu, như: bầu cử dân chủ, cơ chế bãi miễn, minh bạch trong lãnh đạo: “Các uỷ viên ban chấp hành khu bộ và Ban chấp hành trung ương được bầu hàng năm, có quyền được bầu lại và có thể bị những người bầu ra mình bãi miễn bất cứ lúc nào”6. Lãnh đạo tập thể và dân chủ, bảo đảm sự tham gia của đông đảo quần chúng lao động vào việc xây dựng xã hội, phản ánh ý chí của phong trào quần chúng, giảm thiểu sự tha hóa, quyền lực được phân bổ và thực hiện bởi tập thể, hình thức lãnh đạo tiến bộ có thể đại diện cho lợi ích của giai cấp vô sản, tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình. Trong lãnh đạo tập thể, các quyết định quan trọng được thảo luận, cân nhắc trên cơ sở ý kiến đa chiều.
Quần chúng lao động giữ vai trò trung tâm trong việc kiến thiết và xây dựng xã hội mới. Quyền lực xuất phát từ quần chúng lao động, những người tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quần chúng không thụ động tuân theo lãnh đạo mà là chủ thể sáng tạo, chủ thể tham gia quyết định và thực thi các chính sách xã hội. Lãnh đạo trong xã hội chủ nghĩa dựa trên nguyên tắc dân chủ, đề cao sự tham gia của đông đảo quần chúng vào đời sống xã hội với hình thức dân chủ trực tiếp, người lao động tham gia vào các quyết định các vấn đề liên quan đến sản xuất, phân phối, điều hành xã hội. Lãnh đạo trong xã hội mới, quyền lực không thuộc về thiểu số mà được chia sẻ bởi toàn bộ xã hội, tính công bằng, dân chủ được thực thi trên thực tế, các quyết định đều hướng đến lợi ích chung dựa trên lãnh đạo tập thể và dân chủ. Giai cấp lãnh đạo thừa hành và tôn trọng ý chí của số đông, quyền lực lãnh đạo phản ánh nguyện vọng, nhu cầu thực tế của đại bộ phận người lao động. Để đạt được những điều đó, người lãnh đạo cần có tư tưởng cấp tiến, ý thức giác ngộ vượt trước thời đại để hướng dẫn người lao động trong quá trình giải phóng mình khỏi sự áp bức, bất công. Vì lẽ đó, lãnh đạo không được phép xa rời thực tiễn mà phải gắn bó mật thiết với Nhân dân lao động, khai thác tối đa tiềm năng sáng tạo của người lao động.
Trong chuyên chính vô sản, lãnh đạo xuất phát từ lợi ích của quần chúng lao động, phục vụ lợi ích của quần chúng. Đó là sự thiết lập quyền lực chính trị của giai cấp vô sản sau cách mạng, phá bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng xã hội không có giai cấp, bảo đảm sự thống trị của giai cấp lao động với nền dân chủ rộng rãi. Quyền lực trong chuyên chính vô sản không thể bị chiếm đoạt hoặc tập trung vào một nhóm nhỏ mà bắt nguồn từ lao động sản xuất, đó là nguồn gốc quyền lực bởi đó là sức mạnh tập thể, không phụ thuộc vào một cá nhân hay nhóm thiểu số. Quyền lực phục vụ lợi ích của quần chúng lao động, người lãnh đạo là “công bộc” của Nhân dân, không phải “người cai trị”, lãnh đạo hướng tới cải thiện đời sống, bảo đảm quyền lợi về kinh tế, xã hội, chính trị của người lao động.
Bốn là, phương tiện thực hiện hoạt động lãnh đạo.
Phương tiện lãnh đạo được giai cấp thống trị sử dụng gồm quân đội, cảnh sát để duy trì quyền lực, thúc đẩy mục tiêu giai cấp để đàn áp các phong trào phản kháng, duy trì sự phục tùng của giai cấp bị trị dựa trên cưỡng chế (bạo lực). Công cụ pháp luật được C. Mác xem là công cụ chính trị hợp pháp hóa sự thống trị của giai cấp cầm quyền, bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất, duy trì địa vị, củng cố cho hành động bóc lột. Công cụ kinh tế, yếu tố cốt lõi để duy trì quyền lực lãnh đạo, tạo nền tảng cho quyền lực chính trị và xã hội, giai cấp thống trị nắm giữ nguồn lực kinh tế từ đó kiểm soát đời sống của giai cấp lao động, phụ thuộc mạnh mẽ vào thiết chế do giai cấp cầm quyền thiết lập.
Giai cấp cầm quyền phát triển và sử dụng hệ tư tưởng như giáo dục, tôn giáo, truyền thông và văn hoá để định hình nhận thức, niềm tin, tạo sự chấp nhận tự nguyện từ giai cấp bị trị để hợp pháp hóa sự bất bình đẳng, duy trì trạng thái xã hội hiện tại. C. Mác cho rằng tôn giáo là “thuốc phiện của Nhân dân”, giai cấp thống trị sử dụng làm dịu sự bất mãn của quần chúng lao động, từ đó duy trì sự bất bình đẳng, áp bức trong xã hội bằng cách khuyến khích con người chấp nhận nỗi khổ ở hiện tại, cam chịu thay vì đấu tranh để thay đổi hiện thực. Hệ tư tưởng của giai cấp thống trị có thể làm “tha hóa” ý thức của giai cấp bị trị, chấp nhận trật tự hiện tại như lẽ tự nhiên.
Nhà nước là công cụ quan trọng nhất để giai cấp thống trị thực hiện quyền lực lãnh đạo, bảo vệ cấu trúc kinh tế – xã hội hiện hành, đàn áp những mâu thuẫn giai cấp có thể làm lung lay trật tự hiện có. Trái lại, trong xã hội không còn giai cấp, nhà nước không còn cần thiết và sẽ “tự tiêu vong”, vì nhà nước là thực thể tồn tại để duy trì bất bình đẳng giai cấp. Ngoài ra, còn có đảng chính trị với tư cách đại diện cho phương tiện, lợi ích để thực hiện hoạt động lãnh đạo giai cấp. Trong cách mạng vô sản, Đảng Cộng sản là tổ chức lãnh đạo trung tâm của giai cấp vô sản.
Bên cạnh đó, khoa học – công nghệ như những phương tiện giai cấp thống trị sử dụng để gia tăng năng suất lao động: “Giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất thì cách mạng hóa những quan hệ sản xuất đó có nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội”7. Khoa học và công nghệ có thể trở thành phương tiện khi được giai cấp vô sản sử dụng để cải thiện đời sống và xóa bỏ bóc lột và trong bối cảnh bùng nổ phương tiện truyền thông, các thiết chế mềm được tạo ra và lan toả rộng rãi trong xã hội càng làm cho quần chúng bị áp bức dễ bị mê hoặc. Hơn nữa, chỉ dựa vào bạo lực, quyền lực sẽ dễ bị lung lay bởi sự phản kháng, xung đột giai cấp có thể bùng nổ nhưng với sự sáng tạo, khéo léo kết hợp tinh tế giữa bạo lực và hệ tư tưởng, giai cấp thống trị sẽ làm cho hệ tư tưởng thâm nhập vào ý thức, trở thành niềm tin, giai cấp bị trị sẽ tự nguyện chấp nhận.
3. Sự kế thừa và vận dụng tư tưởng lãnh đạo của C. Mác vào bối cảnh của Việt Nam
a. Kế thừa tư tưởng lãnh đạo của C. Mác về lãnh đạo
Lãnh đạo gắn liền với lợi ích giai cấp, biểu hiện quyền lực của giai cấp thống trị. C. Mác nhấn mạnh vai trò của giai cấp vô sản trong việc lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội. Đảng Cộng sản là đại diện của giai cấp công nhân và toàn dân tộc, Đảng đặt lợi ích của toàn thể dân tộc làm trung tâm trong mọi quyết sách và hoạt động lãnh đạo, Đảng lãnh đạo thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Quyền lãnh đạo của Đảng được thể hiện qua lãnh đạo chính trị, tư tưởng, tổ chức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm quyền lực thuộc về Nhân dân. Quyền lực lãnh đạo của Đảng được thể chế hóa qua hệ thống pháp luật, được thực hiện trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Tăng cường vai trò của công tác dân vận, Đảng lãnh đạo bằng sức mạnh tổ chức, sự đồng thuận và niềm tin của Nhân dân, tư tưởng “lấy dân làm gốc” trở thành nguyên tắc lãnh đạo, hướng đến việc xây dựng xã hội quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân lao động, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó Đảng là hạt nhân lãnh đạo, đại diện cho lợi ích của mọi tầng lớp Nhân dân.
Phương tiện để thực hiện hoạt động lãnh đạo. Trong bối cảnh hiện đại, hệ tư tưởng được truyền bá thông qua giáo dục chính trị, bảo đảm người dân hiểu được công bằng xã hội, dân chủ, sự tham gia. Tổ chức là phương tiện quan trọng để tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng lao động, do vậy các tổ chức chính trị – xã hội cần hoạt động mạnh mẽ hơn để đại diện đầy đủ lợi ích của quần chúng. Pháp luật và thể chế là công cụ mà giai cấp thống trị sử dụng để duy trì quyền lực, trong chuyên chính vô sản, pháp luật là phương tiện phục vụ lợi ích của giai cấp lao động, với hệ thống pháp luật công bằng, minh bạch, mọi chính sách đều hướng đến lợi ích chung, vai trò của các thiết chế dân chủ trong giám sát và phản biện chính sách được tăng cường để bảo vệ người dân. Với kinh tế, nền tảng vật chất của mọi hình thức, quyền lực được tổ chức để phục vụ lợi ích của toàn xã hội, đặc biệt là tầng lớp lao động, chú trọng phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, kinh tế nhà nước với sự tham gia của người lao động. Với giáo dục và văn hóa, phương tiện để định hình tư duy, nhận thức của con người, góp phần duy trì quyền lực giai cấp, do vậy giáo dục và văn hóa hướng tới việc nâng cao ý thức, tri thức và năng lực tự quản của người lao động, giúp người lao động tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội. C. Mác không trực tiếp nhắc đến công nghệ song trong thời đại hiện nay, truyền thông trở thành phương tiện hiệu quả để thực hiện hoạt động lãnh đạo, thúc đẩy sự tham gia của quần chúng lao động.
Lãnh đạo cách mạng và vai trò của giai cấp vô sản. Đảng xây dựng khối liên minh công – nông làm nền tảng cho cách mạng, tranh thủ trí thức và các lực lượng yêu nước khác. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mục tiêu là vì con người, giảm bất bình đẳng, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm lợi ích của Nhân dân lao động, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, không chỉ xây dựng khối công – nông, mở rộng đến các tầng lớp khác để phát huy sức mạnh dân tộc, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không ngừng được nâng cao là minh chứng cho việc đoàn kết toàn dân để thực hiện nhiệm vụ cách mạng, trong giáo dục chính trị, tư tưởng Mác – Lênin không ngừng được giáo dục trong cán bộ, đảng viên, Nhân dân, khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”8.
Lãnh đạo tập thể, dân chủ được thể hiện qua nguyên tắc “tập trung dân chủ” trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, bảo đảm mọi thành viên trong tổ chức đều được tham gia vào quá trình ra quyết định trên cơ sở tuân thủ kỷ luật chung. Nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng trong tổ chức và hoạt động của Đảng kết hợp lãnh đạo tập thể, các vấn đề quan trọng đều được quyết định thông qua tập thể. Trách nhiệm người đứng đầu thực hiện nhiệm vụ trên cơ sở các quyết định của tập thể, chịu trách nhiệm trước tổ chức, bảo đảm sự minh bạch, gắn kết trong lãnh đạo, đề cao thực hành dân chủ trong lãnh đạo. Trong nội bộ Đảng, đảng viên có quyền thảo luận, đóng góp ý kiến về những vấn đề liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, mọi quyết định quan trọng đều được thực hiện thông qua biểu quyết. Trong lãnh đạo xã hội, xây dựng cơ chế để người dân tham gia vào quá trình lãnh đạo nhà nước như Quốc hội, các tổ chức chính trị – xã hội và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
b. Vận dụng tư tưởng của C. Mác vào bối cảnh mới tại Việt Nam
Một là, lãnh đạo gắn bó với Nhân dân.
Lãnh đạo xuất phát từ lợi ích và nhu cầu thực tế của Nhân dân được Đảng vận dụng “lấy dân làm gốc”. Trong bối cảnh mới cần tiếp tục quán triệt vận dụng tư tưởng này với việc xây dựng cơ chế lắng nghe và phản hồi ý kiến Nhân dân. Tăng cường ứng dụng công nghệ trong lãnh đạo, kết nối giữa chính quyền với người dân, mở rộng kênh tiếp nhận ý kiến của người dân. Đẩy mạnh thực hiện hoạt động đối thoại với Nhân dân, đẩy mạnh tính minh bạch trong lãnh đạo trên cơ sở công khai thông tin về chính sách, dự án liên quan đến người dân. Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”9. Lãnh đạo trên tinh thần phục vụ lợi ích Nhân dân, đặt lợi ích của Nhân dân làm trọng tâm trong các quyết sách. Ưu tiên giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận dịch vụ công. Thực hiện công tác giáo dục chính trị, rèn luyện cán bộ về đạo đức cách mạng, phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể và Mặt trận Tổ quốc trong việc kết nối giữa lãnh đạo với Nhân dân.
Hai là, lãnh đạo trên cơ sở phát huy tính gương mẫu của người đứng đầu.
Trong tư tưởng của C. Mác, lãnh đạo phải là người giác ngộ, đi trước, làm gương cho tập thể. Vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu được Đảng cụ thể hoá trong các quy định, tiên phong trong nhận thức và hành động, điều này phù hợp với tư tưởng của C. Mác. Rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng, C. Mác cảnh báo về nguy cơ tha hóa quyền lực, cụ thể hóa tư tưởng này cần đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, xây dựng các nhà lãnh đạo gương mẫu trong sạch, vững mạnh, đặc biệt tính gương mẫu trong tư duy lý luận, lãnh đạo phải nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, năng lực thực tiễn. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế gắn trách nhiệm người đứng đầu với kết quả công việc, hiệu quả lãnh đạo được đánh giá trong mối quan hệ với sự hài lòng của cán bộ, nhân viên, người dân. Tăng cường thực hiện chế độ chịu trách nhiệm tập thể và cá nhân, người đứng đầu phải chịu trách nhiệm cao nhất về các vấn đề phát sinh trong cơ quan, đơn vị.
Ba là, phát huy vai trò của lãnh đạo với tinh thần gần dân, hiểu dân.
Phát huy vai trò của lãnh đạo trong lối sống, tinh thần trách nhiệm, thực hành đạo đức cách mạng, phát triển đức tính liêm khiết, trung thực, nói đi đôi với làm, đặt lợi ích tập thể, Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân. Nghiêm túc trong thực hành kỷ luật, kỷ cương về chống quan liêu, tham nhũng, thể hiện sự minh bạch, công bằng, quyết liệt trong xử lý các hành vi vi phạm. Lãnh đạo phải là người làm gương trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình, đưa ra các quyết định dựa trên lợi ích chung và kiểm soát tốt quá trình thực thi. Cần gắn trách nhiệm nêu gương với đánh giá hiệu quả công tác lãnh đạo dựa trên mức độ gần gũi, hiểu biết, giải quyết các nhu cầu của Nhân dân. Đồng thời, tăng cường cơ chế phản biện xã hội, khuyến khích các đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội tham gia giám sát hoạt động của lãnh đạo và công khai kết quả giám sát, kết quả giải quyết kiến nghị, phản ánh của người dân để bảo đảm trách nhiệm giải trình.
Bốn là, vận dụng sáng tạo tư tưởng lãnh đạo của C. Mác gắn với đặc thù Việt Nam.
Tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo không mang tính giáo điều mà phải được vận dụng và phát triển dựa trên thực tiễn Việt Nam, phù hợp lịch sử, văn hóa, kinh tế – xã hội của đất nước về phát huy tinh thần đoàn kết dân tộc, lòng yêu nước. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa vận hành theo quy luật thị trường vừa gắn với mục tiêu xã hội. Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân và toàn dân tộc, đồng thời đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Vận dụng tư tưởng lãnh đạo của C. Mác cần sáng tạo gắn với điều kiện thực tế, lấy lợi ích của Nhân dân làm mục tiêu tối thượng, học hỏi những kinh nghiệm thành công từ các mô hình quốc tế và kết hợp sáng tạo giữa tư tưởng lãnh đạo của C. Mác và thực tiễn Việt Nam để xây dựng mô hình lãnh đạo phù hợp với đặc thù, bản sắc Việt Nam.
4. Kết luận
Tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, khẳng định giá trị khoa học vượt thời đại. Những tư tưởng, như: đặt lợi ích của Nhân dân lao động lên hàng đầu, xây dựng bộ máy lãnh đạo minh bạch, hiệu quả, khuyến khích sự tham gia của quần chúng Nhân dân và các quyết sách của nhà nước không chỉ phù hợp với bối cảnh lịch sử mà còn có tính ứng dụng sâu sắc trong bối cảnh lãnh đạo ngày nay. Tại Việt Nam, sự kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi kinh tế, tư duy lãnh đạo khoa học, dân chủ và gắn bó mật thiết với Nhân dân mà C. Mác nhấn mạnh là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng và chính quyền các cấp, khẳng định sự lựa chọn của Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là sự lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên, để tiếp tục phát huy những giá trị đã đạt được, Việt Nam cần linh hoạt vận dụng tư tưởng của C. Mác về lãnh đạo phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội Việt Nam, giải quyết hiệu quả các thách thức của thời đại. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cán bộ, đề cao vai trò giám sát của Nhân dân sẽ là những bước đi quan trọng nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 21.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật. tr. 180.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Toàn tập, Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 48.
4. C. Mác và Ph. Ăngghen (1993). Tuyển tập, Tập 4. H. Nxb Chính trị quốc gia, tr. 32.
5. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Toàn tập, Tập 21. H. NXB Chính trị quốc gia. tr. 253.
6, 7, 8. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995). Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 735, 600 – 601, 615.
9. Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 403.