TS. Vũ Ngọc Thanh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – “Lửa đỏ” và “nước lạnh” ở đây là muốn nói đến những thách thức thời đại mà Đảng được Nhân dân trao trọng trách cầm quyền để thực hiện sứ mệnh lãnh đạo, đưa dân tộc bước lên “Vũ đài vinh quang” sánh vai với các cường quốc trên thế giới như di nguyện thiêng liêng của Bác kính yêu – phải vượt qua bằng bản lĩnh được tôi luyện của mình trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình trỗi dậy của dân tộc, kỷ nguyên “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Vậy những thách thức ấy là gì? Và làm sao để vượt qua? Bằng bản lĩnh được luận bàn tại đây để góp phần làm giàu thêm lý luận của Đảng.
Từ khóa: Bản lĩnh cầm quyền, lửa đỏ, nước lạnh, vươn mình, trỗi dậy.
1. Nhận thức về “Đảng cầm quyền” và “Bản lĩnh cầm quyền” của Đảng Cộng sản và một số khái niệm liên quan
1.1. Đảng cầm quyền
Khái niệm được V.I. Lênin lần đầu tiên nêu ra để chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp nắm giữ và lãnh đạo chính quyền nhằm điều hành, quản lý đất nước để thực hiện lợi ích của giai cấp mình1. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam (viết tắt là Đảng), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch. Phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân. Khẳng định này không chỉ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng mà còn bổ sung trách nhiệm đạo đức và sự phục vụ Nhân dân. Điều này tạo nên một tính hai mặt trong bản chất của Đảng cầm quyền ở nước ta. Một mặt, phải thể hiện năng lực và hiệu quả trong việc quản lý nhà nước, hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển đất nước. Mặt khác, phải không ngừng duy trì sự trong sạch, vững mạnh về đạo đức, lối sống và luôn gắn bó mật thiết với Nhân dân.
Việc Đảng không chỉ nắm giữ quyền lực mà còn phải là “đầy tớ thật trung thành của Nhân dân” cho thấy, năng lực lãnh đạo của Đảng không chỉ được đo lường bằng hiệu quả quản lý mà còn bằng khả năng tự chỉnh đốn, chống suy thoái và duy trì mối quan hệ máu thịt với Nhân dân. Bất kỳ sự suy yếu nào trong khía cạnh đạo đức hoặc sự xa rời quần chúng đều có thể trực tiếp ảnh hưởng đến năng lực cầm quyền và uy tín của Đảng, làm suy giảm tính chính đáng, chính danh của sự cầm quyền và lãnh đạo.
Khái niệm cần quyền này đặc biệt chỉ vai trò của Đảng khi lãnh đạo Nhân dân đã giành được chính quyền về tay Nhân dân. Đảng thực hiện lãnh đạo toàn xã hội bằng Chính quyền nhân dân và các tổ chức đoàn thể của Nhân dân, quản lý và điều hành mọi hoạt động của Đất nước bằng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Như thế, Đảng cầm quyền ở đây phải được hiểu là Đảng được Nhân dân trao cho trọng trách cầm quyền để đoàn kết toàn thể Dân tộc trong công cuộc xây dựng phát triển Đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam trong mọi hoàn cảnh.
1.2. Bản lĩnh cầm quyền
Không chỉ đơn thuần là khả năng giành và giữ chính quyền nhân dân mà còn là năng lực lãnh đạo, điều hành đất nước phát triển theo mong muốn của Nhân dân, kiên định vượt qua mọi thử thách, chông gai, để thực hiện mục tiêu tất cả vì lợi ích của Nhân dân2, bao hàm sự kiên định về tư tưởng, đường lối cách mạng, khả năng thích ứng linh hoạt, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là khả năng tự phê bình, tự chỉnh đốn để duy trì sự trong sạch và vững mạnh. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, là yếu tố cấu thành bản lĩnh cầm quyền của Đảng, đó là sự hiểu biết sâu sắc, tin tưởng tuyệt đối, tuân thủ nghiêm ngặt và kiên định vững vàng đối với Nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt trong những hoàn cảnh khó khăn hay những bước ngoặt của cách mạng3.
Bản lĩnh cầm quyền là một thuộc tính năng động và không ngừng phát triển, liên tục được kiểm nghiệm và hoàn thiện thông qua các hành động và ứng xử của Đảng trước các thách thức, đó là một quá trình liên tục của sự thích ứng chiến lược, kiên định về tư tưởng và tự chỉnh đốn nội bộ.
Tầm quan trọng của bản lĩnh cầm quyền đối với sự ổn định và phát triển quốc gia thể hiện ở chỗ là yếu tố then chốt giúp Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại và khẳng định cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay; bảo đảm sự ổn định chính trị, là tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng. Bản lĩnh này cho phép Đảng đưa ra các đường lối đối ngoại đúng đắn, chủ động hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài và mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần nâng cao đời sống nhân dân4.
Bản lĩnh cầm quyền của Đảng được ghi nhận là yếu tố giúp Đất nước vượt qua “muôn vàn khó khăn” và đạt được “thắng lợi vĩ đại”, bản lĩnh này không chỉ là một đặc tính nội tại của Đảng mà còn là năng lực cốt lõi cho phép Đất nước vượt qua các thách thức, duy trì ổn định và theo đuổi các mục tiêu phát triển dài hạn. Điều này hàm ý không chỉ là sức mạnh nội tại mà còn là thành tố đóng góp trực tiếp vào năng lực của Đất nước và là yếu tố quyết định sự thành công trên trường quốc tế.
1.3. Năng lực cầm quyền và lãnh đạo
Năng lực cầm quyền của Đảng được khái quát qua sáu nội dung chính sau đây:
(1) Khả năng đề ra chiến lược cách mạng: là năng lực trong việc xây dựng tầm nhìn, hoạch định chiến lược phát triển đất nước qua từng thời kỳ, hướng tới đích cuối cùng là chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
(2) Khả năng tổ chức thực hiện quyết sách: thể hiện ở việc Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối thành chính sách, pháp luật, tổ chức thực hiện trong toàn xã hội. Đảng không bao biện, làm thay Nhà nước mà lãnh đạo Nhà nước cụ thể hóa đường lối, chủ trương.
(3) Khả năng lãnh đạo sử dụng quyền lực của Nhà nước và phát huy vai trò các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể: thể hiện thực tiễn năng lực cầm quyền, lãnh đạo của Đảng qua hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước và đoàn thể.
(4) Khả năng thực hiện tốt công tác cán bộ: bao gồm năng lực lựa chọn, bồi dưỡng, giáo dục và quản lý cán bộ để bảo đảm phẩm chất, năng lực của đội ngũ trong toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, ngang tầm nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới.
(5) Khả năng tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về sứ mệnh cầm quyền và đường lối lãnh đạo: năng lực này đòi hỏi tăng cường kỷ luật, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để hoàn thiện đường lối.
(6) Khả năng gắn kết khối đại đoàn kết dân tộc: năng lực cầm quyền của Đảng còn thể hiện ở việc Đảng là hạt nhân của khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân và huy động sự ủng hộ của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Sáu yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo này không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ hữu cơ, tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau.
2. “Lửa đỏ và nước lạnh” cho bản lĩnh cầm quyền của Đảng
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và những biến đổi phức tạp của tình hình thế giới, Đảng đối mặt với nhiều thách thức khác nhau, trên nhiều mặt, cả nội tại và bên ngoài, đối với bản lĩnh cầm quyền.
2.1. Về thể chế phát triển đất nước
Bối cảnh phát triển trong kỷ nguyên mới đòi hỏi thể chế phát triển mới, được tạo dựng bằng phương thức tư duy mới, trong khi hệ thống thể chế hiện hành được tạo dựng theo phương châm là xây dựng pháp luật phục vụ cho quản lý của Nhà nước, do đó đã tồn tại trong nhiều năm qua lối tư duy “không quản được thì cấm”. Đến nay, thực tế đã xây dựng được khá nhiều luật nhưng hệ thống pháp luật bị rơi vào tình trạng chồng chéo, còn thiếu và chưa hoàn thiện so với yêu cầu của thực tiễn.
Việc thực thi còn yếu, còn tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa chính sách và thực tiễn. Điều này làm cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân và FDI thường xuyên phải đối mặt với những rào cản và chi phí không chính thức và hậu quả là không chỉ làm chậm quá trình ra quyết định, triển khai dự án mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh và khả năng thu hút đầu tư chất lượng cao. Nếu không giải quyết được vấn đề này, lòng tin của nhà đầu tư và người dân sẽ bị suy yếu, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Đây là một thách thức lớn.
2.2. Về chính trị
Một trong những thách thức nghiêm trọng nhất là suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đây là nguy cơ “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, gây hậu quả khôn lường và làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Biểu hiện là chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng, cơ hội, không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Tiếp theo là nguy cơ tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực – “quốc nạn”, một trong bốn nguy cơ làm suy giảm niềm tin xã hội, diễn ra trên các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị với quy mô ngày càng lớn, hậu quả nghiêm trọng và thủ đoạn tinh vi.
Nguy cơ quan liêu, xa rời quần chúng cũng là một vấn đề đáng báo động. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện quan liêu, thiếu sự đồng cảm, vô cảm trước những vấn đề bức xúc của Nhân dân, dẫn đến khiếu kiện kéo dài. Điều này làm cho mối quan hệ “cá nước” (Đảng với dân như cá với nước) có nguy cơ biến thành “dầu nước” (dầu nổi trên mặt nước, không có liên hệ gì với nước).
Thách thức từ nguy cơ vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng: việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ chưa nghiêm túc, hoạt động tổ chức và quản lý đảng viên còn hình thức, tự phê bình và phê bình chưa sâu sắc, kỷ luật lỏng lẻo, gây mất đoàn kết nội bộ.
Tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, sự phối hợp chưa đồng bộ, những hạn chế trong năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức là những thách thức hiện hữu.
Thích ứng với những thay đổi nhanh chóng trong xã hội, lắng nghe và đáp ứng kịp thời những nguyện vọng chính đáng của Nhân dân cũng là một thách thức không nhỏ.
2.3. Về kinh tế
Một trong những thách thức lớn nhất là nguy cơ tụt hậu và rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Để đạt được mục tiêu trở thành nước phát triển, Việt Nam cần duy trì tốc độ tăng trưởng cao tới 2 con số ổn định trong nhiều năm tới; đồng thời, nâng cao chất lượng tăng trưởng, dựa trên năng suất lao động, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Kỷ nguyên mới đòi hỏi đảng phải tổ chức được phương thức sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và quan hệ sản xuất mới phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phụ thuộc vào bên ngoài, như vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và thị trường xuất khẩu cũng là một thách thức lớn vì sự phụ thuộc quá lớn có thể gây ra những rủi ro về an ninh kinh tế và khả năng tự chủ kinh tế của đất nước.
(1) Thách thức trong việc duy trì định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Việc cân bằng giữa “thị trường” và “định hướng xã hội chủ nghĩa” là một thách thức lớn đối với Đảng. Đảng cho phép và khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, thậm chí cho phép đảng viên tham gia hoạt động kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, việc duy trì “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong một nền kinh tế thị trường năng động đặt ra nhiều câu hỏi về kiểm soát và điều tiết. Các vấn đề như sự xuất hiện của “chủ nghĩa tư bản thân hữu” có thể làm suy yếu các giá trị cốt lõi của định hướng xã hội chủ nghĩa. Thách thức lớn nhất là làm thế nào để bảo đảm sự phát triển kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của toàn dân, giảm thiểu bất bình đẳng, không dẫn đến sự tha hóa xã hội, đồng thời vẫn duy trì vai trò lãnh đạo và kiểm soát của Đảng.
(2) Vấn đề nợ xấu và rủi ro bất ổn tài chính.
Thách thức giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là trong khu vực ngân hàng thương mại tư nhân đang gia tăng đáng kể: đến cuối tháng 6/2024, nợ xấu của các ngân hàng thương mại tư nhân là 633 nghìn tỷ VND, chiếm gần 80% tổng nợ xấu toàn hệ thống các tổ chức tín dụng5.
Thách thức từ rủi ro của thị trường bất động sản cũng là đáng lo ngại vì nguy cơ bong bóng bất động sản đã từng xảy ra ở Việt Nam vào giai đoạn 2007-2008 và có thể tái diễn, gây thiệt hại lớn cho nhà đầu tư và toàn bộ nền kinh tế. Việc thiếu khung pháp lý hiệu quả để xử lý tài sản bảo đảm là một rủi ro pháp lý lớn và trực tiếp làm gia tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt là liên quan đến khu vực tư nhân và bất động sản. Điều này đe dọa trực tiếp đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định vĩ mô
(3) Thách thức về phát triển kinh tế tư nhân và lợi ích nhóm.
Mặc dù đã khẳng định kinh tế tư nhân ở Việt Nam, là “một động lực quan trọng nhất” của nền kinh tế quốc dân, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo, khu vực này hiện vẫn đối mặt với môi trường cạnh tranh chưa thực sự bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực và các cơ hội mua sắm công. Và, vẫn đối mặt với nhiều hạn chế về năng lực nội tại và khả năng tiếp cận nguồn lực thiết yếu. Thực tế cho thấy, hơn 98% doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm hơn 73%6. Quy mô trung bình của doanh nghiệp tư nhân có xu hướng giảm, từ 27 lao động/doanh nghiệp vào giữa thập niên 2000 xuống xấp xỉ 18 lao động/doanh nghiệp hiện nay7.
Khu vực này gặp nhiều khó khăn: (1) Nguồn vốn chủ yếu vẫn phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng nhưng việc vay vốn không dễ dàng do yêu cầu tài sản thế chấp và lãi suất cao, khiến doanh nghiệp tư nhân khó cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài có thể tiếp cận vốn với lãi suất chỉ 2-3%/năm. Các ngân hàng và quỹ đầu tư cũng ngần ngại cho vay do rủi ro cao; (2) Khó khăn trong tiếp cận đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh là một rào cản dai dẳng; (3) Năng lực khoa học và công nghệ của phần lớn doanh nghiệp tư nhân còn thấp, chủ yếu tập trung vào các ngành dịch vụ phụ trợ hoặc sản xuất quy mô nhỏ, chưa tham gia sâu vào các lĩnh vực chiến lược như công nghệ cao, năng lượng tái tạo hay hạ tầng. Khả năng liên kết và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu còn rất hạn chế, với chỉ khoảng 15% doanh nghiệp tư nhân là nhà cung ứng cho các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam8.
Vấn đề lợi ích nhóm có thể dẫn đến một dạng “chủ nghĩa tư bản thân hữu” – nơi các mối quan hệ cá nhân và chính trị có thể trở nên quan trọng hơn năng lực cạnh tranh thực sự của doanh nghiệp. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế mà còn tác động tiêu cực đến tính chính danh và sự công bằng xã hội. Nếu kinh tế tư nhân phát triển không dựa trên cạnh tranh lành mạnh mà dựa trên đặc quyền và mối quan hệ, có thể làm gia tăng bất bình đẳng, suy giảm lòng tin vào hệ thống chính trị và tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội, đi ngược lại định hướng XHCN.
(4) Thách thức từ sự phụ thuộc vào chuỗi cung ứng toàn cầu và biến động kinh tế thế giới.
Là một nền kinh tế đã hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, Việt Nam đặc biệt dễ bị tổn thương bởi những biến động trong thương mại và đầu tư toàn cầu. Nguy cơ từ các chính sách bảo hộ thương mại, đặc biệt là từ Mỹ, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Sự tham gia chủ yếu ở các khâu giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu khiến nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi các cú sốc bên ngoài như chiến tranh thương mại, biến động địa chính trị và suy thoái kinh tế toàn cầu.
(5) Năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia chưa cao.
Năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực ASEAN và thế giới. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, với năng lực tài chính, quản trị và công nghệ yếu kém, dẫn đến năng suất lao động thấp. Điều này là một trong những nguyên nhân chính khiến nền kinh tế khó nâng cao giá trị gia tăng và thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.
(6) Thách thức thoát “bẫy gia công” trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Sự phụ thuộc vào FDI và nguy cơ “bẫy gia công” là một vấn đề chiến lược. Nhiều tập đoàn đa quốc gia thường tận dụng lợi thế tài nguyên của Việt Nam chủ yếu để xuất khẩu nguyên liệu thô, sau đó chế biến sâu và xây dựng thương hiệu ở nước ngoài, thay vì liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp trong nước. Điều này tạo ra nguy cơ Việt Nam bị mắc kẹt trong “bẫy gia công”, nơi nền kinh tế chủ yếu làm thuê cho các công ty nước ngoài, khó phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và nâng cao giá trị gia tăng nội địa.
(7) Thách thức thoát “bẫy phụ thuộc” kinh tế vào các cường quốc.
Việt Nam có sự phụ thuộc đáng kể vào các thị trường xuất khẩu lớn, như: Hoa Kỳ và Trung Quốc, do đó, nguy cơ rủi ro lớn khi các chính sách bảo hộ thương mại hoặc căng thẳng địa chính trị ảnh hưởng đến các thị trường này. Nguy cơ “bẫy phụ thuộc” là một vấn đề kinh tế vĩ mô. Sự phụ thuộc quá mức vào một số thị trường lớn hoặc nguồn cung nguyên liệu từ một quốc gia tạo ra nguy cơ Việt Nam bị mắc kẹt trong “bẫy phụ thuộc”.
2.4. Về xã hội
Quốc nạn tham nhũng, lãng phí và tiêu cực được xác định là một trong những nguy cơ lớn nhất, làm suy giảm niềm tin của Nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Và, bất bình đẳng xã hội, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng, những vấn đề về nhà ở, việc làm, y tế, giáo dục, bảo hiểm xã hội đặt ra những thách thức không nhỏ hiện nay.
Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Việt Nam đã kéo theo quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mạnh mẽ, hậu quả là sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập, đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn, giữa các nhóm giàu nghèo. Thách thức này không chỉ là vấn đề phân phối lại thu nhập mà còn là về mô hình tăng trưởng. Sự phân hóa xã hội sâu sắc, đe dọa sự ổn định và bền vững của sự phát triển, đi ngược lại mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng đã đề ra.
(1) Thách thức về an sinh xã hội và quyền lợi người lao động.
Hệ thống an sinh xã hội Việt Nam đối mặt với thách thức lớn trong việc mở rộng độ bao phủ toàn dân, đặc biệt là cho khu vực lao động phi chính thức, vốn chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động. Tình trạng già hóa dân số nhanh chóng cũng gây áp lực đáng kể lên hệ thống lương hưu và các quỹ an sinh xã hội khác.
Khoảng cách giữa chính sách và thực tế bảo vệ người lao động là một vấn đề nhức nhối. Dù đã có những chính sách an sinh xã hội và luật lao động, thực tế cho thấy một bộ phận lớn người lao động, đặc biệt trong khu vực phi chính thức và kinh tế nền tảng, vẫn chưa được bảo vệ đầy đủ.
(2) Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một thách thức rất lớn vì hiện hữu nguy cơ phai nhạt, và mất đi bản sắc văn hóa truyền thống, sự xâm nhập của các giá trị phản văn hóa, tư tưởng độc hại, lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ, coi trọng vật chất tuyệt đối; Các mối quan hệ truyền thống tốt đẹp như thầy – trò, thầy thuốc – bệnh nhân,… bị thương mại hóa. Sự du nhập của văn hóa ngoại lai có thể làm xói mòn những giá trị truyền thống tốt đẹp, đặc biệt là trong giới trẻ. Và, các vấn đề xã hội khác như tội phạm các loại, tệ nạn xã hội phát sinh trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội cũng là thách thức không nhỏ.
2.4. Về công nghệ
Kỷ nguyên vươn mình diễn ra trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển mạnh mẽ đặt ra không ít thách thức về công nghệ. Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt và làm chủ các công nghệ mới như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ chuỗi khối (Blockchain) để nâng cao năng suất lao động, tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế, và xây dựng một xã hội thông minh. Tuy nhiên, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong việc theo kịp sự phát triển công nghệ của thế giới. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ số còn hạn chế, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, và năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) còn yếu. Quy mô, năng lực và trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn khoảng cách đáng kể so với các nước phát triển, chưa đạt được những đột phá đáng kể, chưa làm chủ được các công nghệ chiến lược hoặc cốt lõi.
Bảo đảm an ninh mạng trong bối cảnh số hóa ngày càng sâu rộng là một thách thức lớn. Nguy cơ tấn công mạng, đánh cắp dữ liệu và các hoạt động tội phạm công nghệ cao đang gia tăng, đòi hỏi Việt Nam phải có những giải pháp mạnh mẽ để bảo vệ hệ thống thông tin và tài sản số của quốc gia.
2.5. Về môi trường và tác động của biến đổi khí hậu
Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, đặc biệt là từ khu vực công nghiệp và tư nhân đã gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở Việt Nam. Các ngành công nghiệp như dệt may, chế biến thực phẩm, khai thác mỏ, hóa chất, thép, nhựa, dầu khí, giấy và xi mạ thải ra lượng lớn khí thải, nước thải độc hại và chất thải rắn.
Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu. Các tác động bao gồm nhiệt độ cao hơn, mực nước biển dâng, và các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ lụt và hạn hán; ước tính biến đổi khí hậu có thể gây thiệt hại 12 – 14.5% GDP mỗi năm vào năm 2050 và đẩy thêm 1 triệu người vào cảnh nghèo cùng cực vào năm 2030 nếu không có các biện pháp thích ứng và giảm thiểu phù hợp. Và, để đạt được lộ trình phát triển thích ứng với khí hậu và phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Việt Nam cần thêm khoảng 368 tỷ USD đầu tư tích lũy đến năm 2040, tương đương 6.8% GDP9.
2.6. Về đối ngoại
Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức trong quan hệ quốc tế. Sự cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc, đặc biệt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, tạo ra những áp lực không nhỏ lên chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại “cây tre” là một nỗ lực để duy trì tự chủ chiến lược. Tuy nhiên, việc cân bằng các mối quan hệ với cả hai cường quốc là một nhiệm vụ đầy thách thức. Mối quan hệ với Trung Quốc đặc biệt phức tạp, liên quan đến chủ quyền, tự chủ chính trị, thương mại và tranh chấp Biển Đông.
Thách thức từ các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an ninh mạng, tội phạm xuyên quốc gia ngày càng trở nên phức tạp, khó lường.
“Diễn biến hòa bình” và sự chống phá của các thế lực thù địch vẫn tiếp diễn với những biểu hiện mới, tinh vi hơn nhằm phủ nhận vai trò cầm quyền của Đảng, xuyên tạc lịch sử, chia rẽ nội bộ, kích động trong xã hội, làm suy yếu chế độ.
Thách thức nâng cao vị thế quốc tế và tăng cường quyền lực mềm thông qua việc góp sức giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, an sinh xã hội,… Điều này đòi hỏi sự tham gia chủ động, có trách nhiệm vào các cơ chế quản trị toàn cầu, xây dựng lòng tin và sự tôn trọng từ cộng đồng quốc tế.
3. Vượt qua thách thức
Để vượt qua những thách thức nói trên, Đảng cần tiếp tục triển khai nhiều giải pháp phù hợp, đồng bộ, quyết liệt nhằm duy trì nắm quyền lực lâu dài, phát huy năng lực lãnh đạo hiệu quả trong bối cảnh mới bằng các giải pháp sau:
(1) Tiếp tục chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện vì đây là nhiệm vụ then chốt, mang tính sống còn của Đảng, trong đó bao gồm xây dựng Đảng về: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên quyết đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, xa vào chủ nghĩa cá nhân, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ; nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.
(2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Yêu cầu cán bộ phải “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách, dám hành động vì lợi ích chung”. Đổi mới tư duy, phương pháp công tác, phong cách lãnh đạo của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu.
(3) Nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và lý luận: cán bộ, đảng viên phải kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chống các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Việc học tập lý luận chính trị phải được đổi mới theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn.
(4) Đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không bao biện làm thay Nhà nước nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.
(5) Tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân: phải luôn gắn bó mật thiết và được Nhân dân tin yêu; thực hiện tốt phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe, đối thoại, giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân, chống quan liêu, xa rời quần chúng.
(6) Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, bổ sung lý luận để hoàn thiện đường lối, nâng tầm tư duy lý luận của Đảng; nghiên cứu, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Điều này giúp Đảng duy trì tính “khoa học và cách mạng” và phản ứng linh hoạt, chủ động, hiệu quả trước những thay đổi không ngừng của bối cảnh trong nước và quốc tế. Khả năng tự đổi mới và phát triển lý luận từ thực tiễn là yếu tố sống còn để Đảng duy trì vai trò lãnh đạo và tính chính đáng của mình lâu dài, đặc biệt khi đối mặt với các vấn đề mới.
(7) Tăng cường kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng nghiêm minh để bảo đảm thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng, đặc biệt là tập trung dân chủ. Xử lý nghiêm minh các vi phạm, không có “vùng cấm,” không có ngoại lệ.
(8) Phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng và xã hội, gắn kết với kỷ luật, kỷ cương. Mở rộng dân chủ trong Đảng là tiền đề cho dân chủ xã hội, đồng thời phải kết hợp với tăng cường pháp chế, trách nhiệm công dân, kỷ luật và đạo đức xã hội.
(9) Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí “không có vùng cấm, không có ngoại lệ” là nhiệm vụ quan trọng để củng cố niềm tin của Nhân dân, làm trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước.
4. Kết luận
Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam mở ra một giai đoạn phát triển đầy hứa hẹn về một tương lại quốc gia phồn vinh, văn minh và hạnh phúc, sánh vai với các cường quốc trên thế giới nhưng cũng đặt ra không ít thách thức đối với bản lĩnh cầm quyền và sứ mệnh dẫn dắt Dân tộc của Đảng. “Lửa đỏ và nước lạnh” mà Đảng phải vượt qua là những thách thức về: nguy cơ tụt hậu và sự phụ thuộc bên ngoài; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu, xa dân; bất bình đẳng trong xã hội; bảo tồn bản sắc và phát triển văn hóa dân tộc đậm đà; hiệu quả quản trị quốc gia; niềm tin trong xã hội; nắm bắt và làm chủ công nghệ mới; biến đổi khí hậu và ô nhiễm; an ninh phi truyền thống; năng lực cạnh tranh quốc gia và mối quan hệ với các cường quốc trong đối ngoại.
Để vượt qua “lửa đỏ và nước lạnh”, thực hiện thành công mục tiêu lịch sử của Đất nước và hoàn thành trọng trách, sứ mệnh dẫn dắt Nhân dân trong kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc, Đảng cần tiếp tục đột phá tư duy nhận thức, đổi mới phong cách và nâng cao năng lực lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân, xây dựng những chiến lược, chính sách phù hợp và thực hiện hiệu quả trên mọi lĩnh vực. Sự thành công trong kỷ nguyên mới không chỉ phụ thuộc vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mà còn đòi hỏi sự chung sức, đồng lòng của toàn Dân tộc.
Với lịch sử vẻ vang hơn 95 năm qua, bản lĩnh cầm quyền của Đảng đã được tôi luyện qua muôn vàn “lửa đỏ và nước lạnh” để lãnh đạo Nhân dân làm nên những kỳ tích vĩ đại của Dân tộc ghi mốc chói lọi trong sử vàng của nhân loại, tin tưởng tuyệt đối và vững chắc rằng Đảng tiếp tục thể hiện được bản lĩnh dẫn dắt Dân tộc tới đỉnh vinh quang “dân giàu – nước mạnh – dân chủ – công bằng – văn minh” trên vũ đài thế giới.
Chú thích:
1, 2. Phí Thị Lan Phương (2023). Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986-2020). Tóm tắt luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Cần giải pháp mạnh hơn xử lý nợ xấu. https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/links/cm196?dDocName=SBV615712.
4. Củng cố và nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng trong giai đoạn mới. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chinh-tri-xay-dung-dang/-/2018/953302/cung-co-va-nang-cao-ban-linh-chinh-tri-cho-doi-ngu-can-bo-lanh-dao-nguoi-dung-dau-dap-ung-yeu-cau-cua-thuc-tien-cach-mang-trong-giai-doan-moi.aspx.
5. Phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. https://www.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/v-bchidaohoanthientc.aspx.
6, 7, 8. Cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân hiện nay. https://tapchicongthuong.vn/co-hoi-va-thach-thuc-doi-voi-su-phat-trien-cua-kinh-te-tu-nhan-hien-nay-100728.htm.
9. World Bank: Key Highlights: Country Climate and Development Report for Vietnam. https://www.worldbank.org/en/country/vietnam/brief/key-highlights-country-climate-and-development-report-for-vietnam.