Nghiên cứu về mua hàng xanh trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam

TS. Trần Thị Hương
Trường Kinh tế, Đại học Bách khoa Hà Nội
Nguyễn Hồng Hà
Học viên Trường Kinh tế, Đại học Bách khoa Hà Nội
ThS. Đỗ Thái Công
Tập đoàn Điện lực Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh chuyển dịch xanh đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, mua hàng xanh đang dần trở thành chiến lược được ưu tiên áp dụng tại nhiều doanh nghiệp trên thế giới. Các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại các tỉnh, thành phố khu vực miền Bắc hoạt động mua hàng xanh đang ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý và hoạch định chính sách. Xuất phát từ thực tiễn, bài viết tiến hành khảo sát thực trạng triển khai mua hàng xanh, đồng thời, nhận diện các động lực và rào cản đối với việc thực hiện hoạt động này tại các doanh nghiệp trong khu vực. Từ đó, đề xuất các giải pháp về chính sách và quản trị nhằm đẩy mạnh triển khai mua hàng xanh, góp phần xanh hóa chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp công nghiệp khu vực phía Bắc Việt Nam.

Từ khóa: Mua hàng xanh, rào cản, động lực, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, các tỉnh phía Bắc.

1. Đặt vấn đề

Theo Liên hiệp quốc (2022)1, ngành sản xuất công nghiệp là một trong những nguồn phát thải khí nhà kính lớn nhất trên thế giới, gây ra biến đổi khí hậu và sự nóng lên của toàn cầu. Để ứng phó với tình trạng này, nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các chính sách và quy định môi trường nghiêm ngặt nhằm kiểm soát lượng phát thải, thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chuyển đổi sang mô hình phát triển xanh và bền vững.

Tiêu biểu phải kể đến như Chỉ thị (EU) 2024/1785 của Liên minh châu Âu được sửa đổi nhằm kiểm soát lượng khí thải công nghiệp và xử lý rác thải, hướng tới mục tiêu đưa các nước thành viên đạt được nền kinh tế trung hòa carbon vào năm 2050 (The European Parliament and of the Council, 2024)2, hay Đạo luật Giảm lạm phát (Inflation Reduction Act) năm 2022 của Hoa Kỳ hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi sang sản xuất xanh, phát triển năng lượng tái tạo, công nghệ lưu trữ điện và giảm phát thải khí nhà kính (United States Congress, 2022)3. Đồng thời, với các ràng buộc về mặt pháp lý, sức ép từ phía các đối tác, người tiêu dùng trong vấn đề bảo vệ môi trường và áp lực canh tranh ngày một gia tăng đã tác động lên các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, buộc các doanh nghiệp này phải tìm kiếm các giải pháp nhằm thích ứng với điều kiện kinh doanh thay đổi mà vẫn bảo đảm thực hiện trách nhiệm môi trường (Sarkis & Dou, 2017)4. Trước bối cảnh đó, mua hàng xanh trở thành một trong những giải pháp hữu hiệu, giúp các doanh nghiệp giảm thiểu được các tác động tiêu cực đến môi trường; đồng thời, nâng cao hiệu quả kinh tế, năng lực cạnh tranh và hạn chế rủi ro trong vận hành (Ghosh, 2019)5.  

Tại Việt Nam, những nỗ lực và cam kết của Chính phủ trong việc đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, cùng với các yêu cầu môi trường ngày càng khắt khe từ phía đối tác quốc tế và áp lực cạnh tranh gia tăng trên thị trường toàn cầu đã thúc đẩy mua hàng xanh trở thành một hoạt động thiết thực và cấp thiết. Tuy nhiên, hoạt động này lại khá mới mẻ và chưa thực sự phổ biến ở nước ta (Đỗ, 2020)6. Do đó, cần thiết phải có nhiều nghiên cứu nhằm khảo sát thực trạng mua hàng xanh, xác định những động lực, rào cản đối với việc triển khai mua hàng xanh tại các doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy hoạt động này được biết tới và ứng dụng rộng rãi hơn. Để lấp đầy khoảng trống nghiên cứu này, bài viết đi sâu tìm hiểu và làm rõ 4 câu hỏi nghiên cứu sau: (1) Thực tế, mua hàng xanh tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp tại Việt Nam nói chung và ở khu vực miền Bắc Việt Nam nói riêng diễn ra như thế nào; (2) Những động lực nào thúc đẩy thực hành mua hàng xanh tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khu vực miền Bắc Việt Nam; (3) Những yếu tố nào cản trở việc thực hành mua hàng xanh tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khu vực miền Bắc Việt Nam; (4) Đâu là những giải pháp thúc đẩy và tạo thuận lợi hoá hoạt động mua hàng xanh tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở khu vực miền Bắc Việt Nam.

2. Những xu hướng nghiên cứu chính về mua hàng xanh

Mua hàng xanh là hoạt động mua sắm các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, có cân nhắc đến yếu tố môi trường khi ra quyết định mua sắm. Mục tiêu của mua hàng xanh là giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường trong suốt vòng đời sản phẩm (Sarkis & Dou, 2017)7, thông qua các hoạt động như ưu tiên mua sắm các hàng hóa, dịch vụ có khả năng tái sử dụng, tái chế, hoặc sử dụng các vật liệu không độc hại (Zhu và cộng sự, 2007)8.

Trên thế giới, nhiều nghiên cứu về mua hàng xanh đã được thực hiện cả trong khu vực công và tư nhân. Tại doanh nghiệp, các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu những động lực và rào cản đối của việc thực hiện mua hàng xanh cũng như các tác động khi thực hiện triển khai hoạt động này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, yếu tố đến từ nội bộ của tổ chức, quy định môi trường, áp lực từ phía khách hàng, đối thủ cạnh tranh và xã hội là những động lực chính thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện mua hàng xanh. Trong khi đó, những trở ngại về chi phí, thiếu sự cam kết từ phía nhà cung cấp, quy định pháp luật và các rào cản đặc thù ngành là những thách thức đối với doanh nghiệp (Walker và cộng sự, 2008)9. Ngoài ra, lợi ích kinh tế và môi trường của mua hàng xanh cũng được khẳng định thông qua một loạt các nghiên cứu của các tác giả, như Yook và cộng sự (2018)10 hay Al-Ghwayeen & Abdallah (2018)11. Tại Việt Nam, các nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực mua hàng xanh còn rất hạn chế. Hiện nay, chưa có một nghiên cứu nào tiến hành khảo sát thực tế mức độ thực hiện mua hàng xanh tại các doanh nghiệp Việt Nam trong một lĩnh vực cụ thể hay tại một khu vực đặc thù. Khoảng trống trên là động lực để nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài.

3. Thực trạng mua hàng xanh ở các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khu vực miền Bắc Việt Nam 

Thực tế hiện nay nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở khu vực miền Bắc Việt Nam đã bắt đầu triển khai các hoạt động mua hàng xanh. Samsung Electronics Việt Nam (Bắc Ninh, Thái Nguyên) đã xây dựng nhiều hoạt động hợp tác chặt chẽ với nhà cung cấp để bảo đảm các tiêu chí môi trường (Samsung Việt Nam, 2025)12. Tương tự, Cannon Việt Nam (Hà Nội) cũng đưa ra những tiêu chuẩn “Điều phối xanh” đối với các nhà cung cấp, yêu cầu đối tác phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn môi trường do Canon và pháp luật Việt Nam đề ra, tất cả các linh kiện trước khi được chuyển đến nhà máy đều đảm bảo là “sản phẩm thân thiện với môi trường” (Canon Việt Nam, 2025)13. Ở lĩnh vực dệt may, Tổng Công ty Đức Giang đã xây dựng trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu, có nhiệm vụ tìm tất cả các nguồn nguyên liệu vải, đặc biệt là vải thân thiện môi trường, đồng thời, tiếp tục gia tăng sản xuất các loại vải này trên các sản phẩm của mình14.

Dù vậy, thực tế cũng cho thấy không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ nguồn lực và năng lực để thực hiện mua hàng xanh. Theo kết quả khảo sát, gần 70% các doanh nghiệp được điều tra cho rằng mua hàng xanh là hoạt động quan trọng hoặc rất quan trọng đối với doanh nghiệp của họ, tuy nhiên có tới 53% người tham gia phỏng vấn cho biết mua hàng xanh đang diễn ra kém hiệu quả tại nơi họ làm việc, 30% doanh nghiệp không thực hiện, hoặc mới chỉ có ý định thực hiện mua hàng xanh. Đa số các doanh nghiệp đang ở giai đoạn bắt đầu thực hiện hoạt động này.

Cụ thể, 70% các doanh nghiệp được khảo sát đã và đang tiến hành mua các sản phẩm, dịch vụ, nguyên vật liệu đầu vào thân thiện với môi trường với điều kiện những hàng hóa đó không làm tăng đáng kể chi phí doanh nghiệp; 52,9% doanh nghiệp đã tích hợp mục tiêu môi trường vào trong các tiêu chí để lựa chọn, hợp tác với nhà cung cấp. Tuy nhiên, khi áp dụng những hoạt động mua hàng xanh đòi hỏi nỗ lực cao hơn từ cả phía người mua và nhà cung cấp, số lượng doanh nghiệp sản xuất công nghiệp sẵn sàng triển khai hoạt động mua hàng xanh đã giảm đáng kể, 41,2% doanh nghiệp được hỏi không có ý định yêu cầu nhà cung cấp của doanh nghiệp phải có hệ thống quản lý môi trường (Environment Management System – EMS) hoặc có những hoạt động đánh giá đối với nhà cung cấp.

Chỉ 29,41% số lượng điều tra đã tích hợp mua hàng xanh vào chiến lược cốt lõi và chủ động hợp tác với nhà cung cấp để đồng phát triển sản phẩm xanh, tối ưu chuỗi cung ứng. Đáng chú ý, 80% những doanh nghiệp chưa thực hiện mua hàng xanh là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ hoặc các sản phẩm của họ chỉ cung cấp cho thị trường nội địa. Ngược lại, các doanh nghiệp thực hiện đa dạng hoạt động mua hàng xanh và đạt hiệu quả đều có quy mô vừa và lớn, cung cấp sản phẩm cho các nước phát triển, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước châu Âu.

Chính sách, quy định pháp luật về môi trường và áp lực từ phía khách hàng là hai động lực chính thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khu vực miền Bắc Việt Nam triển khai hoạt động mua hàng xanh. Trên thế giới, Liên minh châu Âu đã ban hành Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), áp đặt thuế carbon đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vào EU, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất công nghiệp Việt Nam nếu hàng hóa bán vượt ngưỡng phát thải cho phép. Tại Việt Nam, cùng với cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy doanh nghiệp chuyển dịch sang hướng sản xuất xanh và phát triển bền vững, cụ thể như Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030 (Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2050), hay Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 – 2030 (Quyết định số 889/QĐ-TTg ngày 24/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững giai đoạn 2021 – 2030).

Bên cạnh các ràng buộc pháp lý, các cơ hội từ chính sách, áp lực từ phía người tiêu dùng, khách hàng và đối tác cũng là nguyên nhân thúc đẩy doanh nghiệp mua hàng xanh. Theo báo cáo của PwC năm 2024, 85% người tiêu dùng toàn cầu đang trực tiếp cảm nhận tác động của biến đổi khí hậu trong cuộc sống hằng ngày và ưu tiên các sản phẩm bền vững. Khảo sát của hãng Nielsen cũng cho thấy 66% người tiêu dùng sẵn sàng chi thêm tiền cho sản phẩm đến từ một thương hiệu quan tâm môi trường, gấp 3 lần so với năm 201115.

4. Một số rào cản triển khai hoạt động mua hàng xanh

Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định các rào cản đối với doanh nghiệp thực hiện mua hàng xanh ở nhiều lĩnh vực khác nhau.

Dựa trên kết quả tổng hợp cùng với sự tham khảo từ ý kiến chuyên gia trong lĩnh vực, nhóm tác giả đã xác định 8 yếu tố có thể là rào cản đối với hoạt động mua hàng xanh tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam, bao gồm: (1) nhận thức, (2) nhân lực, (3) chi phí, (4) nguồn cung cấp, (5) thông tin, (6) chính sách, (7) thị trường, (8) sự phối hợp. Cũng theo nhận định của các chuyên gia, các rào cản này không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ tương hỗ với nhau và được minh hoạ (xem Hình 1):

Bên cạnh đó, kết quả khảo sát cho thấy, đa số chuyên gia cho rằng chi phí nguyên liệu xanh đầu vào cao cùng với những hạn chế trong các chính sách thúc đẩy, quy định hướng dẫn của Chính phủ và sự thiếu liên kết, phối hợp giữa doanh nghiệp với khách hàng, các nhà tư vấn và chuỗi cung ứng là những rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp. Đặc biệt, gần 50% người được khảo sát cho rằng chi phí cao là vấn đề lo ngại, gây cản trở nhất cho doanh nghiệp của họ. Bên cạnh đó, các yếu tố như mức độ cam kết của lãnh đạo doanh nghiệp đối với vấn đề mua hàng xanh, sự sẵn có của các nhà cung cấp xanh trên thị trường và thông tin về độ xanh của sản phẩm còn hạn chế cũng là những nguyên nhân khiến doanh nghiệp chưa thực hiện được hoạt động này. Việc thiếu đội ngũ nhân lực có hiểu biết về mua hàng xanh và nhu cầu mua các sản phẩm xanh của khách hàng còn ít tuy được một số doanh nghiệp đề cập đến nhưng còn gây tranh cãi, khi lần lượt 35,29% và 29,41% chuyên gia không đồng ý hoặc có thái độ trung lập đối với nhận định này. Đặc biệt, đa số chuyên gia ngành sản xuất linh kiện điện tử cho rằng vấn đề về nhân lực không phải là rào cản thực hiện mua hàng xanh của doanh nghiệp.

Từ kết quả nghiên cứu, có thể đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động mua hàng xanh tại các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khu vực miền Bắc Việt Nam. Cụ thể, dưới góc độ quản lý nhà nước, Chính phủ cần ban hành hệ thống quy định và hướng dẫn cụ thể về lộ trình thực hiện mua hàng xanh, tăng cường triển khai các chính sách ưu đãi thuế, phí, các gói hỗ trợ tài chính và tín dụng xanh tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp thực hành mua hàng xanh. Cùng với đó, việc nâng cao nhận thức của các nhà quản trị doanh nghiệp về phát triển bền vững, trách nhiệm với môi trường và xã hội cần được triển khai mạnh mẽ hơn thông qua các khóa đào tạo ngắn hạn, diễn đàn, hội thảo chuyên đề. Đây là cơ hội giúp các doanh nghiệp trao đổi thông tin, kinh nghiệm, gặp gỡ khách hàng, đối tác, các tổ chức tư vấn và nhà cung ứng, cùng chung tay tháo gỡ các thách thức liên quan đến mua hàng xanh. Dưới góc độ doanh nghiệp, các nhà quản trị cần chủ động tham gia các hiệp hội ngành nghề, mạng lưới mua hàng xanh để tiếp cận thông tin về nguồn cung ứng xanh, công nghệ xanh và nhà cung cấp mới. Đồng thời, cần nâng cao trình độ, nhận thức, kỹ năng của nhân viên mua hàng, tối ưu hóa quy trình tìm kiếm và quản lý nhà cung cấp để tiết kiệm chi phí khi chuyển dịch sang mua hàng xanh và tích cực lan tỏa lợi ích mua hàng xanh đến với khách hàng và đối tác trong chuỗi cung ứng.

5. Kết luận

Nghiên cứu đã cung cấp thông tin về thực trạng mua hàng xanh tại một số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp khu vực phía Bắc Việt Nam, xác định được 2 yếu tố động lực và 8 rào cản chính đối với việc thực hiện mua hàng xanh tại các doanh nghiệp này. Những phát hiện từ nghiên cứu sẽ là căn cứ để các cơ quan chức năng và doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc thúc đẩy mua hàng xanh. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng còn có điểm hạn chế khi mới chỉ dừng lại ở mức nghiên cứu định tính với số lượng mẫu còn chưa lớn. Do đó, trong tương lai cần có nghiên cứu tập trung vào vấn đề lượng hóa các động lực và rào cản thực hành mua hàng xanh; đồng thời, tiến hành mở rộng quy mô điều tra khảo sát.

Chú thích:
1. Liên hiệp quốc (2022). Nguyên nhân và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. https://vietnam.un.org/vi.
2. The European Parliament and of the Council. (2024). Directive-EU – 2024/1785. https://eur-lex.europa.eu/eli/dir/2024/1785/oj/eng.
3. United States Congress. (2022). Inflation Reduction Act of 2022 (2021-09-27). https://www.congress.gov/bill/117th-congress/house-bill/5376/text.
4, 7. Sarkis, J., & Dou, Y. (2017). Green supply chain management: A concise introduction. Routledge.
8. Zhu, Q., Sarkis, J., & Lai, K. (2007). Green supply chain management: Pressures, practices and performance within the Chinese automobile industry. Journal of Cleaner Production, 15(11-12), 1041-1052.
9. Walker, H., Di Sisto, L., & McBain, D. (2008). Drivers and barriers to environmental supply chain management practices: Lessons from the public and private sectors. Journal of Purchasing and Supply Management, 14(1), 69–85.
10. Yook, K. H., Choi, J. H., & Suresh, N. C. (2018). Linking green purchasing capabilities to environmental and economic performance: The moderating role of firm size. Journal of Purchasing and Supply Management, 24(4), 326–337.
11. Al-Ghwayeen, W. S., & Abdallah, A. B. (2018). Green supply chain management and export performance: The mediating role of environmental performance. Journal of Manufacturing Technology Management, 29(7), 1233–1252.
12. Samsung Việt Nam (2025). Các bước của chúng tôi để hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn. https://www.samsung.com/vn/sustainability/environment/.
13. Canon Việt Nam (2025). Bảo vệ và bảo tồn môi trường toàn cầu. Canon Việt Nam. https://cvn.canon/vn/protectingconserving.html.
14. Đức Giang xây dựng thị trường nội địa, sản phẩm xanh thân thiện môi trường. https://tapchicongthuong.vn/duc-giang-xay-dung-thi-truong-noi-dia–san-pham-xanh-than-thien-moi-truong-104301.htm.
15. Việt Nam xanh 2025: Hành trình của mọi người tiêu dùng. https://tuoitre.vn/viet-nam-xanh-2025-hanh-trinh-cua-moi-nguoi-tieu-dung-2025032714334619.htm.