Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Viện Kiểm sát nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Chức năng giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước giữ một vai trò quan trọng. Những năm gần đây, hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam liên tục được đẩy mạnh, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Bài viết trên cơ sở đánh giá, phân tích kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Viện kiểm sát nhân dân, từ đó có những đề xuất kiến nghị cho hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Viện kiểm sát nhân dân nhằm nâng cao tính hiệu quả và khả thi cao hơn trong thực tiễn.
Nghị quyết về Chương trình giám sát của Quốc hội năm 2023. Ảnh: Quochoi.vn.
Thực tiễn hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Viện kiểm sát nhân dân

Tại các phiên họp Quốc hội, các đại biểu quốc hội (ĐBQH) chất vấn Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao chủ yếu về những nội dung, như: công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác xây dựng và hướng dẫn thi hành pháp luật; công tác xây dựng ngành; mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong thực hiện các nghị quyết của Quốc hội; việc xem xét kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với một số vụ án; vấn đề đẩy nhanh tiến độ và giải quyết dứt điểm một số vụ án được dư luận quan tâm. Qua hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn, ngành Kiểm sát đã nhận được nhiều thông tin phản hồi tích cực từ các ĐBQH và cử tri cả nước.

Trong nhiệm kỳ Quốc hội các khóa gần đây, số câu hỏi chất vấn tại mỗi kỳ họp tăng nhiều đối với Viện trưởng VKSND tối cao. Nội dung chất vấn của các ĐBQH phản ánh được những vấn đề nổi cộm, bức xúc, hạn chế trong quản lý, điều hành kinh tế – xã hội được Nhân dân, cử tri hết sức quan tâm. Cách thức trả lời chất vấn tiếp tục được đổi mới, hạn chế việc đọc báo cáo, giải trình mà chủ yếu dành thời gian cho việc trả lời các câu hỏi chất vấn trực tiếp của ĐBQH tại hội trường. Nội dung trả lời trực tiếp đi vào trọng tâm của câu hỏi chất vấn đã nêu lên được thực trạng, chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất ra phương hướng, giải pháp để giải quyết.

Theo đó, từ Kỳ họp thứ Nhất Quốc hội Khoá XV đến nay, Viện trưởng VKSND tối cao đã nhận và trả lời 52 chất vấn của ĐBQH. Có 30 chất vấn trực tiếp tại Hội trường trong Kỳ họp thứ Năm (9 chất vấn về các vụ án cụ thể; 10 chất vấn về công tác xây dựng pháp luật; 11 chất vấn về công tác xây dựng ngành) và 22 phiếu chất vấn trước, trong và sau các kỳ họp Quốc hội (16 chất vấn về các vụ án cụ thể; 6 chất vấn về công tác xây dựng pháp luật)1.

Ngoài ra, tại các kỳ họp, Quốc hội đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với Viện trưởng VKSND tối cao do Quốc hội bầu. Điển hình, tại Kỳ họp thứ Sáu, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với 48 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, trong đó có Viện trưởng VKSND tối cao. Đây là nội dung giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện mức độ tín nhiệm và sự ghi nhận, đánh giá công tâm, khách quan về những nỗ lực, kết quả đạt được từ đầu nhiệm kỳ đến nay của Viện trưởng VKSND tối cao – người được lấy phiếu tín nhiệm2. Công tác triển khai lấy phiếu tín nhiệm thận trọng, chu đáo, trách nhiệm, nghiêm túc theo đúng nội dung, quy trình, thủ tục, bảo đảm dân chủ, khách quan. Tài liệu, hồ sơ của người cần lấy phiếu tín nhiệm được chuẩn bị đầy đủ và gửi sớm đến ĐBQH để có cơ sở cho việc xem xét, đánh giá. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là “thước đo” hiệu quả hoạt động của những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn và của Viện trưởng VKSND tối cao nói riêng; đồng thời, là nguồn động lực để những người được tín nhiệm cao tiếp tục phát huy, cống hiến; những người chưa được tín nhiệm cao sẽ phấn đấu khắc phục khuyết điểm, nâng cao hiệu quả công việc.

Cùng với hoạt động chất vấn tại kỳ họp Quốc hội, hoạt động chất vấn tại Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội, theo đó, đã thành lập tổ chuyên viên liên ngành trực tiếp kiểm tra, xác minh và kịp thời ban hành kháng nghị đối với các vụ án có dấu hiệu oan, sai; kiên quyết khởi tố, điều tra xử lý đối với cán bộ tư pháp có vi phạm nghiêm trọng, làm oan người vô tội hoặc xâm phạm quyền con người. Điển hình như, khởi tố vụ án, bị can đối với 1 điều tra viên, 1 kiểm sát viên liên quan đến kết án oan ông Nguyễn Thanh Chấn ở tỉnh Bắc Giang; khởi tố vụ án, bị can đối với 2 điều tra viên, 1 kiểm sát viên liên quan đến vụ làm oan 7 người xảy ra tại tỉnh Sóc Trăng3… đôn đốc thực hiện bồi thường kịp thời, đúng quy định của pháp luật cho người bị oan; trả lời và ban hành kết luận của liên ngành tư pháp trung ương đối với những trường hợp không đủ căn cứ kháng nghị…

Căn cứ các chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội chủ động xây dựng và triển khai tổ chức thực hiện hoạt động giám sát theo đúng chương trình, kế hoạch đề ra, cụ thể như, giám sát các văn bản quy phạm pháp luật do VKSND tối cao ban hành. Các văn bản quy phạm đã được đánh giá một cách tương đối toàn diện: từ tính kịp thời, đầy đủ, việc tuân thủ quy định về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục ban hành, tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật… gồm 1 nghị quyết của Quốc hội về thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; 2 thông tư thi hành Luật Tổ chức VKSND năm 2014; 13 thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành pháp luật. VKSND tối cao cũng đã chủ động sửa đổi, ban hành gần 60 quy chế, quy định về tổ chức và hoạt động nhằm bảo đảm thi hành thống nhất các quy định pháp luật trong toàn ngành4.

Công tác tiếp nhận, xử lý, đôn đốc, giám sát việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân đến VKSND cũng được Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội quan tâm đổi mới về cách thức, biện pháp thực hiện, tạo sự chuyển biến, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết. Ngoài ra, căn cứ kết luận của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tại các phiên họp, theo chức năng, nhiệm vụ, Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội đã có nhiều kiến nghị đối với VKSND tối cao yêu cầu cần triển khai thực hiện (nêu tại Phụ lục 5 Báo cáo số 338/BC-UBTVQH14).

Qua hoạt động giám sát, Đoàn ĐBQH đánh giá được những tồn tại, hạn chế trong tổ chức thực thi chính sách, pháp luật cũng như cơ chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND; kịp thời có nhiều kiến nghị xác đáng gửi đến các cơ quan trung ương và chính quyền địa phương nghiên cứu, hoàn thiện. Tiêu biểu, tại Kỳ họp thứ Sáu Quốc hội khóa XIV, đã có 135 ĐBQH đặt câu hỏi chất vấn và 82 lượt ĐBQH tranh luận việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết Kỳ họp thứ Tư đối với những người có liên quan, trong đó có Viện trưởng VKSND tối cao5. Điều này khẳng định, hầu hết các ĐBQH đã rất tích cực trong hoạt động chất vấn, chủ động tiếp cận, nắm bắt tình hình, tăng cường tranh luận với tinh thần thẳng thắn, xây dựng, vì sự phát triển chung của đất nước.

Từ năm 2013 đến nay, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, ĐBQH đã thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động để thực hiện quyền giám sát của mình đối với VKSND. Thông qua các hoạt động giám sát, đã kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của VKSND, bảo đảm mọi quy định của pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Thứ nhất, khái niệm giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của các cơ quan của Quốc hội còn chưa rõ ràng, dẫn đến chưa giới hạn được mục đích và phạm vi giám sát. Việc không rõ ràng trong vấn đề quy trách nhiệm của các chủ thể được giám sát có một phần nguyên nhân từ việc chưa xác định rõ được mục đích của giám sát.

Thứ hai, đối tượng và nội dung giám sát không rõ nên chưa xác định được đối tượng nào, việc nào là trọng tâm, cần tập trung nên hoạt động giám sát còn chung chung, hiệu quả chưa cao.

Thứ ba, hình thức giám sát còn chưa đa dạng. Tại các kỳ họp Quốc hội cũng như các phiên họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Viện trưởng VKSND tối cao thường xuyên phải báo cáo công tác về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng như của ngành. Tuy nhiên, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chưa có sự giải thích, hướng dẫn cụ thể về yêu cầu cần thể hiện trong các báo cáo. Điều đó làm cho VKSND tối cao thường bị lúng túng trong việc chuẩn bi nội dung báo cáo.

Thứ tư, việc thực hiện quyền giám sát chuyên đề đối với VKSND có nội dung khá rộng trong khi thời gian và nguồn lực thực hiện của các cơ quan của Quốc hội có hạn.

Thứ năm, các chất vấn của ĐBQH đối với Viện trưởng VKSND tối cao còn một số hạn chế nhất định, một số câu hỏi chất vấn còn dài, không rõ trọng tâm; thời gian dành cho hoạt động chất vấn nói chung và thời gian dành cho việc chất vấn đến cùng về một nội dung phức tạp, bức xúc nói riêng còn chưa thỏa đáng; việc theo dõi, giám sát đến cùng các vấn đề đã chất vấn chưa được thực hiện triệt để, thiếu thời gian, nhân lực, thông tin và các điều kiện bảo đảm khác cho việc giám sát, đồng thời, một số quy định về chất vấn chưa được rõ ràng.

Thứ sáu, mặc dù, VKSND chỉ giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp, nhưng do điều kiện khối lượng công việc thuộc lĩnh vực phụ trách rất lớn; có vụ việc diễn ra từ nhiều năm trước, qua nhiều thời kỳ, chính sách pháp luật thay đổi hoặc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết chưa trả lời… Do đó, thực hiện quyền giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc thẩm quyền của VKSND vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa dành đủ nguồn lực để thực hiện, nên hiệu quả công tác còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Cơ chế thực hiện, nhất là trong giám sát các vụ việc cụ thể còn chưa rõ trách nhiệm, quy trình, cách thức thực hiện và hậu quả pháp lý.

Nguyên nhân của hạn chế là do hệ thống pháp luật điều chỉnh về hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung và đối với VKSND nói riêng chưa hoàn thiện, thiếu cụ thể. Hiện nay, Quốc hội đã ban hành Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2015 nhưng các quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn và thiếu các quy định về trình tự, thủ tục giám sát một cách hữu hiệu. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về việc thực hiện quyền giám sát còn thể hiện sự chưa đầy đủ, còn chung chung, nằm tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, thậm chí giữa các văn bản pháp luật về cùng một vấn đề lại mâu thuẫn nhau khiến cho việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế quyền giám sát của Quốc hội nói chung và quyền giám sát của Quốc hội đối với VKSND nói riêng cho thấy, các kết luận giám sát mới chỉ dừng lại ở việc “nhắc nhở”, đưa ra “lời khuyên” mà không có quyền gì rõ ràng. Điều này làm cho đối tượng chịu sự giám sát, ở đây là VKSND không phải chịu sự ràng buộc cụ thể, nên khó để bảo đảm thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng khi bị giám sát.

Một số ĐBQH trình độ và năng lực giám sát còn hạn chế; năng lực giám sát của ĐBQH kiêm nhiệm và chuyên trách chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Các ĐBQH không đủ điều kiện thời gian, vật chất và thiếu thông tin, kỹ năng giám sát để thực hiện chức năng giám sát có hiệu quả. Bên cạnh đó, khi thực hiện quyền giám sát của mình, một số ĐBQH còn e ngại trong chất vấn vì tâm lý ngại đụng chạm, nể nang.

Cơ cấu tổ chức bộ máy của Quốc hội còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực hiện quyền giám sát; chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát… Bên cạnh đó, Quốc hội không có Ủy ban chuyên môn chịu trách nhiệm về hoạt động giám sát, trong khi, giám sát là một trong 3 chức năng cơ bản, quan trọng của Quốc hội và trên thực tế, việc thực hiện chức năng giám sát lại luôn là khâu yếu nhất dẫn đến vai trò của Quốc hội chưa thật sự thể hiện được là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân.

Nguyên nhân nữa là, kết quả giám sát còn mang tính chất thống kê, phản ánh tình hình, mà chưa đi sâu phân tích nguyên nhân, hạn chế cũng như làm rõ trách nhiệm của người đứng đầu; các giải pháp, kiến nghị còn chung chung, chưa đủ để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác… dẫn đến tồn tại tiếp diễn, kéo dài. Việc sử dụng thông tin từ hoạt động kiểm toán, thanh tra, kiểm tra và hoạt động nghiên cứu để phục vụ cho yêu cầu thẩm tra, xem xét báo cáo còn hạn chế.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nêu kiến nghị tại kỳ họp Quốc hội. Ảnh: Quochoi.vn.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Viện kiểm sát nhân dân

Một là, tiếp tục tăng cường chất lượng ĐBQH và năng lực của Quốc hộiTrong quá trình chuẩn bị nhân sự cho bầu cử Quốc hội, cần dự kiến một tỷ lệ nhất định số ứng cử viên có trình độ cử nhân luật. Những người này nếu trở thành đại biểu sẽ giữ vai trò tích cực trong việc đưa ra ý kiến, tham mưu giúp Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội thực hiện tốt quyền giám sát của Quốc hội đối với VKSNDCác ĐBQH cần được cung cấp những tài liệu về kỹ năng thực hiện nhiệm vụ của đại biểu, trong đó có tài liệu kỹ năng thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với VKSND; thường xuyên được cung cấp sách báo, tạp chí, các công trình nghiên cứu khoa học về tổ chức và hoạt động của VKSND, về thực hiện chức năng giám sát đối với cơ quan này… Quốc hội cần quy định cụ thể về cơ chế tuyển dụng giúp việc cho các cơ quan của Quốc hội, có cơ chế thích hợp huy động được các nhà khoa học, các chuyên gia làm cộng tác viên cho các cơ quan của Quốc hội trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lập pháp nói chung và thực hiện quyền giám sát đối với VKSND nói riêng. Hơn nữa, cần có Ủy ban chuyên môn chuyên trách, chịu trách nhiệm thực hiện quyền giám sát của Quốc hội đối với VKSND để mang lại hiệu quả cao nhất.

Hai là, tiếp tục đổi mới các phương thức thực hiện hoạt động giám sát của Quốc hội. Đối với việc xem xét báo cáo của Viện trưởng VKSNDTC, nên tập trung vào xem xét, đánh giá kết quả hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; tình hình chấp hành các quy định pháp luật; kết quả giải quyết khiếu nại của công dân; tình hình xây dựng và củng cố tổ chức bộ máy và các điều kiện cơ sở vật chất, các vấn đề quan trọng khác thuộc VKSND… ĐBQH cần tăng cường tranh luận đến cùng với Viện trưởng VKSND tối cao về những vấn đề đã được trả lời nhưng chưa thỏa đáng; thông tin tranh luận phải chính xác, đúng phạm vi chất vấn; không đăng ký tranh luận nhưng lại đặt câu hỏi chất vấn; khi cần thiết, giữa các đại biểu có thể trao đổi lại với nhau nhưng cần cụ thể, đúng trọng tâm vấn đề chất vấn. Tăng cường giám sát văn bản quy phạm pháp luật do VKSND tối cao ban hành trên đầy đủ các phương diện: nội dung, hình thức, trình tự thủ tục, kỹ thuật văn bản và tính kịp thời ban hành văn bản của VKSND tối cao.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội đối với VKSND. Đòi hỏi pháp luật phải có sự đổi mới về kỹ thuật lập pháp, sao cho các quy định pháp luật phải dễ hiểu, dễ thực hiện, giảm tối đa các điều khoản khi thi hành phải qua các bước hướng dẫn trung gian.

Bốn là, tăng cường các điều kiện thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Trên thực tế, các thông tin mà ĐBQH có được vẫn còn nhiều vấn đề không chính xác, VKSND vẫn chưa cung cấp đầy đủ thông tin theo yêu cầu của ĐBQH. Vì vậy, pháp luật cần quy định chế tài cụ thể đối với những trường hợp cung cấp thông tin không chính xác, làm sai lệch do thiếu trách nhiệm, không tích cực, dẫn đến việc cung cấp thông tin chậm trễ, không kịp thời. Bảo đảm điều kiện về tài chính, kinh phí hoạt động để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Bên cạnh đó, điều kiện về trụ sở làm việc, phương tiện đi lại thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH đối với VKSND cũng cần khẩn trương hoàn thiện đáp ứng yêu cầu hoạt động của ĐBQH trong tình hình mới.

Chú thích:
1, 3, 4. Báo cáo về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội của ngành Kiểm sát nhân dân. Hà Nội, năm 2021.
2, 5. Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Báo cáo Tổng hợp kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội, các Đoàn ĐBQH và ĐBQH năm 2018. Hà Nội, 2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Hà Nội, năm 2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị Quốc gia, 2016.
3. Đại từ điển Tiếng Việt. NXB Văn hóa – Thông tin, tr. 108.
4. Đoàn Thị Tố Uyên. Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2012.
5. Từ điển Tiếng Nga. NXB Moscow, tr. 204.
6. Từ điển Tiếng Anh. NXB Leicester, tr. 536.
7. Quốc hội. Hiến pháp năm 2013. H. Chính trị, 2013.
8. Quốc hội. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. H. NXB Chính trị, 2015.
9. Quốc hội. Luật Tổ chức Quốc hội. H. Chính trị, 2015.
10. Quốc hội. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. H. Chính trị, 2014.
ThSLê Thu Hà
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội