Tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong công tác xây dựng Đảng  

(Quanlynhanuoc.vn) – Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Từ thực tiễn lịch sử cách mạng cho thấy, Hồ Chí Minh là người xây đắp nên nền móng lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân được Người xác định vừa là nhiệm vụ trọng tâm, vừa là biện pháp quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm mục đích “làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”1, “để làm cho tất cả cán bộ, đảng viên xứng đáng là những chiến sĩ cách mạng”2.
Ảnh minh họa (internet).
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tháng 10/1947, khi nói về chủ nghĩa cá nhân (CNCN), Người nêu rõ: “Chủ nghĩa cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”3. Người cũng chỉ ra những căn bệnh do CNCN sinh ra, gồm: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ và những bệnh khác, như: hữu danh vô thực, kéo bè kéo cánh, bệnh cá nhân. Đồng thời, Người cũng nhấn mạnh tác hại của những căn bệnh đó: “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung. Kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng”4.

Hồ Chí Minh coi CNCN là một thứ giặc. Theo Người, cùng với giặc ngoại xâm, thì thói quen và truyền thống lạc hậu, CNCN còn ẩn nấp trong mỗi người chính là giặc “nội xâm”. Đó là những kẻ thù, đe dọa đến vận mệnh của dân tộc, của Đảng và làm suy yếu Đảng. Vì vậy, một mặt chúng ta phải chống giặc ngoại xâm để giành, giữ và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc, mặt khác phải quyết tâm loại trừ kẻ địch từ bên trong là giặc “nội xâm”, mà nguy hiểm nhất là CNCN. Hồ Chí Minh cho rằng, vì CNCN mà không ít cán bộ, đảng viên (CBĐV) không chỉ đòi ưu đãi, hưởng thụ, địa vị, quyền hành mà nếu không đạt được, họ sẽ dần dần “xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”5.

Song, Người cũng chỉ rõ, phải nhận thức đúng bản chất của CNCN, phân biệt được CNCN với lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là giày xéo lên lợi ích cá nhân. Tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của con người là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”6.

Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá trình cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, trong đó có đấu tranh chống CNCN, chống lại cái lạc hậu, hư hỏng bắt nguồn từ CNCN là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp. Người nhấn mạnh: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí… Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của Nhân dân”7.

Trong bài viết: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đăng trên báo Nhân dân ngày 03/02/1969, Hồ Chí Minh cho rằng, trong Đảng có những người con xứng đáng, những đồng chí tốt nhưng vẫn còn một số CBĐV mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém. Những con người đó mang nặng CNCN, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.

Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ. Cũng do CNCN mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của Nhân dân8.

Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi CBĐV phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của Nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch CNCN, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Tuy nhiên, phải thấy rõ những khó khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh này, bởi đây là cuộc chiến đấu lớn “chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”9, đòi hỏi mỗi CBĐV cần phải nỗ lực, tự rèn luyện, tự vượt lên chính mình.

Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vào công tác xây dựng Đảng hiện nay

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng luôn luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi. Đồng thời, khẳng định, muốn lãnh đạo đúng đắn phải chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng về mọi mặt, ngăn chặn, đẩy lùi CNCN, làm trong sạch nội bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Trong thời kỳ đổi mới, cùng với việc xác định xây dựng, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Đảng cũng chỉ rõ, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đều tổng kết và đề ra phương hướng cơ bản về xây dựng chỉnh đốn Đảng. Nhiều hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa đã ban hành nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với những vấn đề bức thiết do yêu cầu của công cuộc đổi mới đặt ra.

Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng được cụ thể hóa sát với thực tiễn và được thực hiện toàn diện, đồng bộ về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Qua đó, đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng không ngừng được bổ sung, phát triển và hiện thực hóa. Trình độ lý luận của Đảng và CBĐV được nâng cao, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống tổ chức đảng được xây dựng, củng cố vững mạnh từ trung ương tới cơ sở, chú trọng nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mới công tác cán bộ. Đại đa số CBĐV có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ Nhân dân, được Nhân dân tin tưởng. Thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự đóng góp to lớn của đội ngũ CBĐV.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nêu rõ: “Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay, Đảng ta đoàn kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới”10.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm. Một trong những khuyết điểm đó, đã được chỉ ra tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII): “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”11.

Trung ương cũng chỉ rõ nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khuyết điểm đó là do: “Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của Nhân dân”12.

Từ thực tiễn đó, Đảng ta đã xác định, đấu tranh chống CNCN là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác xây dựng Đảng, cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, với quyết tâm chính trị cao và không có vùng cấm. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII),  đã xác định mục tiêu chính trị nhằm chống CNCN và sự suy thoái trong Đảng: “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa “xây” và “chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên”13.

Để thực hiện có hiệu quả cuộc đấu chống CNCN trong đội ngũ CBĐV hiện nay cần phải quán triệt và thực hiện đồng bộ các giải pháp được xác định trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Kết luận số 21-KL/TW tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), đồng thời, chú trọng một số giải pháp sau:

Một là, tăng cường công tác giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng và đội ngũ CBĐV đối với đấu tranh chống CNCN. Cấp ủy, tổ chức đảng cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi tổ chức, lực lượng, mọi CBĐV nhận thức rõ cuộc đấu tranh chống CNCN, lối sống cơ hội, thực dụng là cuộc đấu tranh đầy khó khăn, phức tạp, là “cuộc chiến đấu khổng lồ”, không những đòi hỏi quyết tâm cao về chính trị mà phải được thực hiện kiên trì, toàn diện và đồng bộ. Từ thực tiễn kinh nghiệm qua các thời kỳ cách mạng trước đây cho thấy, sự cần thiết và phải làm tốt hơn công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, con đường xã hội chủ nghĩa, ý thức tập thể, vì đất nước và Nhân dân, biết sống “mình vì mọi người”. Việc giáo dục này phải tiến hành bài bản từ các cấp học phổ thông đến các cấp học cao hơn, trong các tổ chức, đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên để có được các lớp người được chuẩn bị và giáo dục tốt bổ sung cho Đảng và trở thành những người lãnh đạo, quản lý. Việc giáo dục trong Đảng càng phải sâu sắc và nghiêm túc, thường xuyên.

Hai là, triển khai thực hiện tốt công tác cán bộ cần phải được tiến hành cẩn trọng, bảo đảm lựa chọn, bổ nhiệm được những người có đạo đức và thực tài. Không để lọt vào cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp những người cá nhân chủ nghĩa, tham nhũng, lãng phí, độc đoán, chuyên quyền, coi thường quần chúng, coi thường tập thể, cơ hội chính trị và tham vọng quyền lực. Phải kiểm soát quyền lực đối với những cán bộ nắm các chức vụ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp, với cán bộ trực tiếp quản lý và nắm các nguồn của cải vật chất, tiền bạc. Việc kiểm soát quyền lực bằng kỷ luật, pháp luật, nguyên tắc, quy chế làm việc, phương thức lãnh đạo kết hợp với sự giám sát của Nhân dân, Mặt trận và các đoàn thể có ý nghĩa rất quan trọng. Không kiểm soát tốt quyền lực thì CNCN, cơ hội thực dụng, vụ lợi, lợi ích nhóm sẽ có cơ hội phát triển.

Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình ở tất cả các cấp ủy, tổ chức đảng. Tự phê bình và phê bình luôn luôn là quy luật phát triển của Đảng. Để chống CNCN, cơ hội, thực dụng càng cần sự phê bình nghiêm túc và sự thành thật tự phê bình của mỗi CBĐV. Tự tu dưỡng, rèn luyện của mỗi người theo những chuẩn mực tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là bảo đảm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Mặt khác, cần nỗ lực tạo dựng một chế độ xã hội tốt đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh, vì con người, theo con đường xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền cơ bản và lợi ích chính đáng của mỗi người. Hiện thực xã hội đó, sẽ hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, đoàn kết, trung thực, cần cù, sáng tạo và đẩy lùi CNCN, lối sống cơ hội, thực dụng trong mỗi CBĐV của Đảng.

Bốn là, phát huy trách nhiệm nêu gương của CBĐV, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp trong đấu tranh chống CNCN. Mỗi CBĐV, nhất là người đứng đầu các cơ quan, đơn vị cần quán triệt và thực hiện tốt những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về trách nhiệm nêu gương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; nêu gương trong đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác của CNCN trong CBĐV. Người đứng đầu tổ chức đảng các cấp cần gương mẫu trong tự soi, tự sửa những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân; công tâm, nghiêm khắc trong xem xét ưu điểm, khuyết điểm của cấp dưới. Đồng thời, phát huy vai trò nêu gương, làm gương của CBĐV, cần cảnh giác, sáng suốt phát hiện và kiên quyết đấu tranh chống lại các hiện tượng có nhận thức sai và hành vi nêu gương không tốt, hay còn gọi là nêu gương xấu của đội ngũ CBĐV, trên từng phương diện của đời sống xã hội, nêu gương xấu trong học tập, sinh hoạt đời thường và trong công tác.

Chú thích:
1, 2, 8, 9. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 672, 547, 546 – 547, 617.
3, 4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5 H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 295, 298.
5, 6, 7. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 607, 610, 611.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập II. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 221.
11, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 89, 90, 92.
Tài liệu tham khảo:
1. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa.
ThS. Chu Văn Quang
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng