Quản lý thuế đối với thương mại điện tử tại Việt Nam

Phạm Hà Anh
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết nghiên cứu, đánh giá khung chính sách thuế hiện tại và hiệu quả thực thi quản lý thuế trên các nền tảng thương mại điện tử  Việt Nam. Từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong quản lý thuế đối với thương mại điện tử; đề xuất, khuyến nghị chính sách cần thiết để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, tăng nguồn thu thuế và bảo đảm môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp.

Từ khóa: Thương mại điện tửquản lý thuế; kinh tếchính sách; Việt Nam.

1. Đặt vấn đề 

Với sự lựa chọn sản phẩm phong phú và trải nghiệm mua sắm tiện lợi, thương mại điện tử đã chiếm được cảm tình của người tiêu dùng. Theo thời gian, loại hình kinh doanh này đã có sự tăng trưởng theo cấp số nhân, được thúc đẩy bởi những tiến bộ công nghệ và được tăng tốc khi đại dịch Covid-19 lan rộng, nhờ đó, thương mại điện tử đã trở thành một bộ phận then chốt của nền kinh tế toàn cầu, giữ vai trò chủ đạo trong các hoạt động thương mại ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Thực tiễn những năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử với ước tính tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này năm 2023 tăng trên 25% so với năm trước và đạt 25 tỷ USD. Trong đó, quy mô bán lẻ hàng hoá trực tuyến đạt 17,3 tỷ USD1. Tuy nhiên, bối cảnh thương mại điện tử phát triển cũng đặt ra những thách thức đáng kể bên cạnh những cơ hội to lớn của nó. Một trong những vấn đề cấp bách cần đặt ra là phải nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử nhằm bảo đảm thu ngân sách, thúc đẩy phát triển thương mại điện tử lành mạnh, có tính cạnh tranh, phát triển bền vững trên cơ sở tuân thủ pháp luật của Nhà nước.

Bài viết tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử. Qua đó, có các khuyến nghị đối với Chính phủ nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, nhấn mạnh Chính phủ cần hỗ trợ hơn nữa cho sự phát triển của thương mại điện tử tại Việt Nam.

2. Thực trạng quản lý thuế đối với thương mại điện tử ở Việt Nam

a. Hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay

Với sức mạnh của các mô hình hoạt động, đối tượng tham gia, quy trình hoạt động đa dạng cùng sự hỗ trợ của hạ tầng Internet và ứng dụng công nghệ hiện đại, thương mại điện tử đã trở thành trụ cột quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số của đất nước. Bất chấp những tác động của đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn nổi lên là một trong những thị trường thương mại điện tử tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Năm 2023, quy mô thị trường thương mại điện tử Việt Nam ước đạt 20,5 tỷ USD, tăng 25% so với năm 20222. Hơn nữa, số lượng người tiêu dùng Việt Nam tham gia thương mại điện tử tăng đều qua các năm. Kết quả điều tra, khảo sát của Bộ Công Thương cho thấy đến năm 2023, Việt Nam có 61 triệu người tham gia mua sắm trực tuyến, chiếm 78,6% số người sử dụng Internet3. Thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam cũng còn rất nhiều tiềm năng để phát triển hơn nữa trong tương lai.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam đang mở rộng tham gia kinh doanh, giao thương thông qua thương mại điện tử xuyên biên giới. Thống kê từ Amazon cho thấy, số doanh nghiệp Việt Nam đạt doanh thu 1 triệu USD/năm trên nền tảng thương mại điện tử quốc tế đã tăng vọt gấp 10 lần trong 5 năm qua4. Sự tiến triển tích cực này đã thúc đẩy nhiều doanh nghiệp Việt Nam tăng cường quy mô hiện diện thương hiệu và nâng cao khả năng cạnh tranh trên toàn cầu. Mặc dù thương mại điện tử xuyên biên giới tại Việt Nam vẫn còn khá thách thức với nhiều quy trình, quy định, thủ tục phức tạp về pháp luật, số lượng doanh nghiệp tham gia cuộc chơi thương mại điện tử xuyên biên giới được dự báo sẽ tăng trưởng tích cực trong thời gian tới, nhờ những ảnh hưởng và hỗ trợ tích cực từ Chương trình Chuyển đổi số quốc gia của Chính phủ.

bKhung chính sách, pháp luật về quản lý thuế đối với thương mại điện tử ở Việt Nam

Luật Quản lý thuế năm 2019 đã được ban hành nhằm thiết lập nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động quản lý thuế trong lĩnh vực kinh doanh thương mại điện tử. Cụ thể, bổ sung nghĩa vụ đăng ký, kê khai, nộp thuế đối với các nhà cung cấp trong và ngoài nước kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số nhưng không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; bổ sung quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý thuế đối với thương mại điện tử.

Việt Nam chủ yếu đánh thuế giá trị gia tăng (VAT) đối với các giao dịch thương mại điện tử. Hoạt động thương mại điện tử trong nước phải chịu thuế VAT với mức thuế suất thông thường là 10%. Đối với thương mại điện tử xuyên biên giới, đã thực hiện đơn giản hóa chế độ đăng ký và tuân thủ thuế đối với các doanh nghiệp thương mại điện tử nước ngoài có doanh thu hàng năm vượt ngưỡng nhất định. Các doanh nghiệp này phải đăng ký thuế VAT, thu và nộp thuế VAT đối với vật tư chịu thuế cho người tiêu dùng Việt Nam. Trên cơ sở đó, Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành thêm các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế, trong đó các nội dung về quản lý thuế đối với thương mại điện tử đã được hướng dẫn rõ ràng, khả thi tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế; các thông tư của Bộ Tài chính, như: Thông tư số 105/2020/TT-BTC ngày 03/12/2020 hướng dẫn về đăng ký thuế; Thông tư số 40/2021/TT-BTC ngày 01/6/2021 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh; Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP. Các văn bản hỗ trợ này góp phần thắt chặt khuôn khổ pháp lý về quản lý hoạt động thương mại điện tử và giúp quá trình quản lý thuế đối với loại hình kinh doanh này hiệu quả hơn.

c. Một số vấn đề đặt ra

Một , hiện nay, pháp luật về thuế của Việt Nam chủ yếu tập trung vào các mô hình kinh doanh truyền thống nên việc áp dụng chúng một cách hiệu quả vào nền kinh tế kỹ thuật số là một thách thức. Thuế giá trị gia tăng (VAT) là loại thuế chính đánh vào các giao dịch thương mại điện tử, tương tự như nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, ngưỡng đăng ký VAT tương đối cao, điều này có thể khiến các doanh nghiệp thương mại điện tử nhỏ hơn bị loại ra khỏi mạng lưới thuế (Thanh Hoa, 2024)5.

Hai , Việt Nam là một trong số ít quốc gia ở châu Á xây dựng luật cụ thể và các văn bản hướng dẫn chi tiết về thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, tuy nhiên, khi so sánh với các nền kinh tế phát triển hơn, như: Hoa Kỳ và các nước trong Liên minh châu Âu (EU), chế độ thuế thương mại điện tử của Việt Nam kém hoàn thiện hơn. Ví dụ: Hoa Kỳ đã thực hiện Quyết định giữa Nam Dakota kiện Wayfair, Inc., mở rộng cơ sở tính thuế bán hàng để bao gồm cả những người bán ở xa6. Cách tiếp cận này mạnh mẽ hơn so với Việt Nam, vốn chủ yếu nhằm vào các doanh nghiệp thương mại điện tử nước ngoài, có quy mô lớn. Tương tự, EU đã giới thiệu gói thương mại điện tử VAT, đơn giản hóa việc tuân thủ VAT cho các giao dịch thương mại điện tử xuyên biên giới7. Một số quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, như Singapore và Australia đã triển khai các nguyên tắc đánh thuế dựa trên điểm đến đối với các dịch vụ kỹ thuật số, phù hợp với dự án BEPS của OECD8. Mặc dù Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc đánh thuế thương mại điện tử xuyên biên giới nhưng vẫn chưa đưa ra các quy định cụ thể về thuế dịch vụ kỹ thuật số.

Ba , thách thức từ việc tuân thủ các thông lệ quốc tế tốt nhất và áp dụng cách tiếp cận toàn diện hơn về thuế thương mại điện tử. Hiện nay, cơ quan thuế Việt Nam đang quản lý hai nhóm chính tham gia hoạt động thương mại điện tử: (1) Thương mại điện tử trong nước liên quan đến mua bán hàng hóa, dịch vụ; (2) Thương mại điện tử xuyên biên giới. Đối với thương mại điện tử trong nước liên quan đến mua bán hàng hóa, dịch vụ, có quá nhiều doanh nghiệp thương mại điện tử mới nổi vớilượng giao dịch lớn và thường ở quy mô nhỏ, xuất hiện nhiều trường hợp người nộp thuế không đăng ký kinh doanh hoặc không nộp thuế. Cơ quan thuế không thể xác định được địa điểm kinh doanh hay giờ hoạt động vì hoạt động mua bán diễn ra 24/7 và mọi ngày trong tuần. Bên cạnh đó, thương mại điện tử xuyên biên giới cũng khó xác định nguồn thu nhập và người nộp thuế khi người nộp thuế không đăng ký kinh doanh và không có cơ sở kinh doanh cố định. Doanh nghiệp nước ngoài thường viện dẫn các hiệp định thuế để khẳng định họ không có cơ sở thường trú tại Việt Nam nên không kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.

Bốn , đặc điểm của nền kinh tế số và sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử ở Việt Nam đã đặt ra những thách thức cho công tác quản lý thuế. Thách thức lớn nhất là việc quản lý nguồn thu và người nộp thuế khi tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh xuyên biên giới mà không phải chịu thuế của bất kỳ quốc gia nào theo nguyên tắc quản lý thuế truyền thống. Một khó khăn khác là việc xác định căn cứ tính thuế. Trong môi trường kỹ thuật số, các hoạt động kinh doanh có thể được thực hiện thông qua các trang web có mặt tại một thị trường cụ thể mà không cần sự hiện diện thực tế của người nộp thuế ở đó. Ngoài ra, khó phân biệt rõ ràng giữa các loại thu nhập để tính thuế, đặc biệt là tiền bản quyền, phí dịch vụ và lợi nhuận kinh doanh. Hơn nữa, việc kiểm soát các giao dịch kinh doanh để quản lý đối tượng chịu thuế và truy thu thuế đối với hoạt động thương mại điện tử cũng không hề đơn giản, do những khó khăn trong xác định danh tính người nộp thuế, theo dõi thông tin giao dịch, quản lý thanh toán từ giao dịch thương mại điện tử…

3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với thương mại điện tử

Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh vực thuế. Trong đó, thường xuyên cập nhật, truyền tải đầy đủ các nội dung thông tin về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế, nắm bắt và triển khai kịp thời các văn bản chính sách thuế mới, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, tạo mọi điều kiện hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp tự giác chấp hành và thực hiện tốt chính sách, pháp luật thuế. Qua đó, nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật về thuế và hoàn thành tốt nghĩa vụ của người nộp thuế, đồng thời, tăng cường sự hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế, tạo môi trường thuận lợi trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế một cách cụ thể và toàn diện đối với các mô hình kinh doanh thương mại điện tử. Hiện nay theo Luật Quản lý thuế năm 2019, nguyên tắc khai thuế, tính thuế và xác định đối tượng phải nộp thuế vẫn còn nhiều lỗ hổng. Đồng thời cũng dẫn đến tình trạng thiếu minh bạch trong kê khai và nộp thuế, tạo kẽ hở cho nhiều doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh thương mại điện tử trốn tránh nghĩa vụ thuế. Điều này dẫn đến tình trạng thất thu ngân sách nhà nước đáng kể, ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu và khả năng đầu tư phát triển của quốc gia. Do đó, đề nghị các cơ quan chức năng ban hành và hoàn thiện văn bản quy định về cách tính thuế kinh doanh thương mại điện tử đối với các nhóm đối tượng cụ thể: doanh nghiệp, cá nhân và hộ gia đình. Đặc biệt, cần quan tâm đến các hình thức kinh doanh mới, như: tiền điện tử, tài sản số, các loại hình kinh tế chia sẻ,… bảo đảm việc triển khai thực thi hiệu quả, đồng bộ, thống nhất, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước nói chung và quản lý thuế nói riêng. 

Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế đối với các tổ chức, các nhân kinh doanh thương mại điện tử; doanh nghiệp là chủ sàn kinh doanh thương mại điện tử; các đơn vị vận chuyển; trung gian thanh toán.

Thứ ba, tiếp tục cải cách hành chính theo đơn giản hóa và hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ mới, chuyển đổi số trong quản lý thuế. Với những hiệu quả của chủ trương xây dựng chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, nền kinh tế, việc cập nhật và xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài chính đã cơ bản được hoàn thiện. Bên cạnh đó, Tổng Cục thuế đã hoàn thiện và đưa hệ thống phần mềm dịch vụ thuế điện tử eTax vào hoạt động, giúp quản lý, giám sát các hoạt động kinh doanh, giao dịch điện tử của doanh nghiệp và cá nhân. Điều này giúp việc kê khai, nộp thuế trực tuyến, cổng thông tin trực tuyến để các tổ chức, cá nhân (bao gồm các doanh nghiệp nước ngoài) thuận tiện, tạo thuận lợi trong việc tuân thủ thuế. Trong thời gian tới, việc chuyển đổi số trong hoạt động quản lý thuế, đặc biệt là đối với các giao dịch thương mại điện tử cần được trở thành quy định chung và bắt buộc thay vì là phương án khuyến khích như hiện tại. Như vậy, cơ quan quản lý có thể dễ dàng cập nhật kịp thời và theo dõi quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác phối hợp với các quốc gia trong khu vực và quốc tế nhằm đề ra các quy tắc chung về quản lý thuế, xác định quyền đánh thuế đối với các giao dịch, thu nhập phát sinh từ các mô hình kinh doanh kỹ thuật số. Về cơ bản, đa phần các quốc gia trên thế giới đều đã tự xây dựng được pháp luật liên quan tới thương mại điện tử. Do đó, cần xây dựng được một bản công ước để làm căn cứ cụ thể cho hoạt động quản lý thuế suất với hoạt động thương mại điện tử. Đặt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đây là một yêu cầu cấp thiết khi hoạt động thương mại điện tử ngày một mở rộng xuyên biên giới, với sự tham gia của đa dạng các đối tượng cá nhân, doanh nghiệp mang yếu tố quốc tế. Nếu không có hành lang chung thì rất khó để kiểm soát được hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, gây trở ngại cho cơ quan quản lý khi phải truy thu thuế. 

4. Kết luận

Hoạt động thương mại điện tử đang phát triển nhanh chóng, trở thành xu hướng kinh doanh phổ biến ở Việt Nam, đem lại lợi ích lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên việc quản lý hoạt động này là vấn đề chứa đựng nhiều khó khăn, phức tạp, trong đó đặt ra những thách thức đối với cơ quan thuế cả về chính sách thuế và quản lý thuế. Đánh giá tổng quan khung chính sách, pháp luật về quản lý thuế đối với các thương mại điện tử cơ bản đã được quan tâm, hoàn thiện nhưng còn có những hạn chế, lỗ hổng, cần có giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đối với công tác này, bảo đảm tính thực thi pháp luật trong doanh nghiệp và xã hội, góp phần xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, tạo thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử bền vững.

Chú thích:
1. Thương mại điện tử Việt Nam tăng trưởng nhanh nhưng không bền vững. https://vneconomy.vn/thuong-mai-dien-tu-viet-nam-tang-truong-nhanh-nhung-khong-ben-vung.htm.
2. Năm 2023, thương mại điện tử Việt Nam tăng trưởng 25%. https://infographics.vn/nam-2023-thuong-mai-dien-tu-viet-nam-tang-truong-25/210055.vna
3. Việt Nam có tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử nằm trong nhóm hàng đầu thế giới. https://thuenhanuoc.vn/tapchi/chuyen-muc/doanh-nghiep-thi-truong/3e0a6363-83f4-4a26-a0f2-bce282881d98#:~:text=Cục%20TMĐT%20và%20Kinh%20tế%20số%20ước%20tính%20số%20lượng,lên%20đến%2078%2C6%20%25.
4. Số doanh nghiệp Việt có doanh thu 1 triệu USD/năm trên Amazon tăng gấp 10 lần trong 5 năm. https://tuoitre.vn/so-doanh-nghiep-viet-co-doanh-thu-1-trieu-usd-nam-tren-amazon-tang-gap-10-lan-trong-5-nam-20240522143252971.htm.
5. Đề xuất thu thuế VAT với các đơn hàng giá trị nhỏ chuyển qua Shopee, Lazada, TikTok. https://vnbusiness.vn/thue-ngan-sach/de-xuat-thu-thue-vat-voi-cac-don-hang-gia-tri-nho-chuyen-qua-shopee-lazada-tiktok-1099936.html.
6. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (2018). Decision on South Dakota v. Wayfair, Inc. 586 U.S..Supreme Court.
7. VAT for e-commerce (2023). Taxation and Customs Union. European Union. 
8. Dự án chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận của OECD/G20. https://www-oecd–ilibrary-org.translate.goog/taxation/oecd-g20-base-erosion-and-profit-shifting-project_23132612?_x_tr_sl=en&_x_tr_tl=vi&_x_tr_hl=vi&_x_tr_pto=tc
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Công Thương (2023). Sách trắng thương mại điện tử Việt Nam năm 2023. Hà Nội.
2. Chính phủ (2013). Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử.
3. Chính phủ (2020). Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế.
4. Quốc hội (2019). Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 năm 2019.
5. Văn phòng Chính phủ (2024). Công văn số 56/CĐ-TTg về tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại điện tử và kinh doanh số.
6. Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (2023). National Conference of State Legislatures. Louisville. Ky.
7. Laudon, K. C., & Laudon, J. P. (2017). Management Information Systems: Managing the Digital Firm 15th Edition. Pearson Education.
8. Liên minh Châu Âu (2000). Directive 2000/31/EC of the European Parliament and of the Council of 8 June 2000 on electronic commerce. European Union.  
9. Liên minh Châu Âu (2021). Council Directive (EU) 2021/514 of 22 March 2021 amending Directive 2006/112/EC on the common system of value added tax in relation to certain obligations for Union supplies of goods and services and repealing Directive 2008/8/EC. European Union.
10. OECD (2024). Pillar One – Amount B: Inclusive Framework on BEPS. OECD/G20 Base Erosion and Profit Shifting Project. OECD Publishing. Paris. Truy cập từ: https://doi.org/10.1787/21ea168b-en.
11. Smith (2009). Worldwide Growth of E-Commerce. E-Business (March), 29-34. DOI: 10.1201/9781439809426-c4.
12. Statista (2024). eCommerce – Worldwide | Statista Market Forecast. Truy cập từ: https://www.statista.com/outlook/emo/ecommerce/worldwide
13. Turban, E., King. D., Lee. J. K., Liang, T. P., and Turban, D.C. (2015). Electronic Commerce: A Managerial and Social Networks Perspective 8th Edition. Pearson Education.   
14. Turban, E., McLean, E., & Wetherbe, J. (2004). Information Technology for Management: Transforming Organizations and Markets. Wiley.
15. UNCTAD (2024). Global Cyberlaw Tracker. Truy cập từ: https://unctad.org/topic/ecommerce-and-digital-economy/ecommerce-law-reform/summary-adoption-e-commerce-legislation-worldwide.