TS. Tạ Quang Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh hiện nay, sự vận hành của chính quyền địa phương hai cấp chỉ có thể hiệu quả khi đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thực sự vững mạnh, đủ năng lực và đặc biệt là trong sạch, gương mẫu. Thực tế cho thấy, cấp xã là nơi trực tiếp tiếp xúc, giải quyết công việc hằng ngày của Nhân dân, nên mỗi hành động, thái độ của cán bộ đều ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin của dân đối với Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “cần, kiệm, liêm, chính” là hết sức cần thiết, vừa là chuẩn mực đạo đức, vừa là phương châm hành động để xây dựng bộ máy tinh gọn nhưng thực sự hiệu lực, hiệu quả. Bài viết phân tích và đề xuất các giải pháp vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã hiện nay.
Từ khóa: Cần, kiệm, liêm, chính, tư tưởng Hồ Chí Minh, đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức, cấp xã, vận dụng.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên vươn mình mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, Việt Nam đang tăng tốc hội nhập quốc tế, chuyển đổi số, phát triển kinh tế tri thức, xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu này khiến cán bộ cấp xã không chỉ dừng ở khả năng quản lý hành chính truyền thống mà phải có năng lực mới gắn với phẩm chất đạo đức trong sáng và phong cách phục vụ Nhân dân chuẩn mực. Cán bộ, công chức cấp xã phải đối diện với những đòi hỏi hoàn toàn mới, như: nắm vững pháp luật, hiểu biết về quản lý kinh tế – xã hội, có kỹ năng dân vận, giao tiếp, xử lý tình huống, đồng thời phải sử dụng thành thạo công nghệ hiện đại. Đây là những thách thức không nhỏ đối với một bộ phận cán bộ vốn quen với cách làm truyền thống.
Từ thực tế đó, có thể khẳng định, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là yêu cầu khách quan, cấp bách và có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Không chỉ dừng lại ở việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, quản lý, điều quan trọng hơn là phải tập trung rèn luyện và bồi dưỡng về đạo đức. Cán bộ cấp xã là những người trực tiếp giải quyết công việc của dân, nên phẩm chất đạo đức của họ ảnh hưởng trực tiếp đến niềm tin và sự đồng thuận xã hội.
Trong giáo dục và bồi dưỡng đạo đức, việc thấm nhuần và thực hành tư tưởng “cần, kiệm, liêm, chính” của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa đặc biệt. Cần để làm việc siêng năng, tận tụy, trách nhiệm; Kiệm để tiết kiệm nguồn lực công, chống lãng phí; Liêm để giữ sự trong sạch, không tham nhũng, không vụ lợi; Chính để công tâm, ngay thẳng, đặt lợi ích của Nhân dân và Tổ quốc lên trên hết. Những phẩm chất này nếu được rèn luyện thường xuyên sẽ góp phần khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng vặt, thiếu trách nhiệm ở cơ sở, đồng thời, xây dựng hình ảnh người cán bộ trung thành, tận tụy, gương mẫu.
Đào tạo và bồi dưỡng liên tục là biện pháp quan trọng để khích lệ cán bộ cấp xã phấn đấu, tự hoàn thiện, gắn bó hơn với Nhân dân. Khi có được nền tảng tri thức vững vàng, kỹ năng hành chính hiện đại cùng đạo đức trong sáng, cán bộ sẽ đủ bản lĩnh và tự tin để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới. Như vậy, trong bối cảnh tinh gọn tổ chức bộ máy, vận hành chính quyền địa phương hai cấp và kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng thì việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt là về đạo đức nói chung và “Cần, kiệm, liêm, chính” nói riêng, chính là điều kiện tiên quyết để củng cố niềm tin của Nhân dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc và xây dựng chính quyền thực sự của dân, do dân, vì dân.
2. Tư tưởng “cần, kiệm, liêm, chính” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập nhưng phải đối mặt với muôn vàn khó khăn: thù trong giặc ngoài, nạn đói, nạn dốt, ngân khố cạn kiệt, nền kinh tế kiệt quệ. Chính quyền cách mạng mới thành lập còn non trẻ, trong quá trình hoạt động đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém; xuất hiện tình trạng quan liêu, tham ô, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân.
Trong bối cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài “Thế nào là Cần?”, “Thế nào là Kiệm?”, “Thế nào là Liêm?”, “Thế nào là Chính?” đăng trên báo Cứu Quốc (từ tháng 5/1949 đến tháng 6/1949) với bút danh là Lê Quyết Thắng nhằm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên; đồng thời, định hướng chuẩn mực đạo đức cách mạng cho toàn xã hội. Người coi đây là bốn đức tính nền tảng, gắn bó chặt chẽ với nhau, là tiêu chuẩn quan trọng để xây dựng con người mới, củng cố niềm tin của Nhân dân, bảo đảm cho kháng chiến thắng lợi và kiến quốc thành công. Sau này, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I đã tập hợp và in thành cuốn sách dưới nhan đề “Cần, kiệm, liêm, chính”1.
2.1. Bản chất của “cần, kiệm, liêm, chính” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, “cần, kiệm, liêm, chính” không chỉ là những phẩm chất đạo đức cá nhân mà còn là nền tảng đạo đức cách mạng, gắn bó mật thiết với phẩm chất người cán bộ và sức mạnh tinh thần của dân tộc. Người coi bốn đức tính này như quy luật tự nhiên của đời sống: trời có bốn mùa, đất có bốn phương, thì con người phải có đủ bốn đức ấy mới thành người. Cần là siêng năng, nỗ lực, lao động không ngừng; Kiệm là tiết kiệm thời gian, sức lực, của cải, ngân sách; Liêm là giữ sự trong sạch, liêm khiết, không tham ô, không lợi dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân; Chính là ngay thẳng, công bằng, công tâm, luôn đặt lợi ích của Nhân dân và Tổ quốc lên trên hết.
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bốn phẩm chất này không tồn tại tách biệt mà bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thành chuẩn mực hành xử hằng ngày của người cách mạng. Cần mà không Kiệm thì dễ lãng phí, Kiệm mà không Cần thì thành bủn xỉn; Liêm mà không Chính thì dễ sa vào hình thức, Chính mà không Liêm thì dễ thiên vị. Vì vậy, chúng phải được rèn luyện, đồng thời để trở thành bản chất và giá trị thống nhất của người cán bộ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cán bộ có quyền lực nhưng không giữ gìn cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở thành sâu mọt của dân, làm hại uy tín của Đảng và Nhà nước. Ngược lại, khi thấm nhuần và thực hành nghiêm túc bốn phẩm chất này, người cán bộ sẽ trở nên trong sạch, gương mẫu, đủ sức thu phục lòng dân. Đây không chỉ là những đức tính đạo đức thông thường mà còn là tiêu chí để đánh giá sự trong sạch, vững mạnh của tổ chức Đảng và của cả bộ máy nhà nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt bốn đức tính này trong mối liên hệ chặt chẽ với “chí công vô tư”, tức là hết lòng vì lợi ích chung, không vụ lợi cá nhân. Người cán bộ khi thực hành cần, kiệm, liêm, chính và “chí công vô tư” sẽ thật sự trở thành công bộc của dân, phụng sự Tổ quốc, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Bản chất của cần, kiệm, liêm, chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng đạo đức cách mạng mới, không vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và của nhân loại. Đây là triết lý nhân sinh sâu sắc, khẳng định đạo đức cách mạng chính là gốc của người cán bộ, là sức mạnh tinh thần to lớn giúp Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo, củng cố niềm tin của Nhân dân và xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ.
2.2. Những nguy cơ và thách thức trong thực hành “cần, kiệm, liêm, chính” ở chính quyền cấp xã hiện nay
(1) Nguy cơ
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chính quyền cấp xã giữ vai trò nền tảng, là cấp gần dân nhất, trực tiếp giải quyết hầu hết các công việc gắn với đời sống thường nhật của Nhân dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp hiện nay, vận hành chính quyền cấp xã vẫn tồn tại nhiều hạn chế và nguy cơ, cần được phân tích, đánh giá một cách thấu đáo.
Thứ nhất, hạn chế về năng lực và chất lượng thực thị công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Đây là vấn đề cơ bản và thường xuyên được nhắc đến. Mặc dù đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã có sự chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung năng lực chỉ đạo, quản lý nhà nước, kỹ năng hành chính, kiến thức pháp luật và khả năng thực hiện nhiệm vụ còn hạn chế. Trong bối cảnh phân cấp, phân quyền mạnh hơn cho địa phương, nhiều cán bộ, công chức chưa đủ trình độ để thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ phức tạp, dẫn đến tình trạng lúng túng, chậm trễ hoặc xử lý không đúng pháp luật. Điều này tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người dân và làm suy giảm lòng tin của xã hội.
Thứ hai, nguy cơ phát sinh tham nhũng, nhũng nhiễu và lợi ích nhóm ở cấp chính quyền cơ sở.
Do chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp giải quyết thủ tục hành chính, cấp giấy tờ, chứng thực, xác nhận nên cán bộ dễ nảy sinh tâm lý “ban phát quyền lợi” dẫn đến tình trạng sách nhiễu hoặc “xin – cho”. Khi quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ, đặc biệt trong điều kiện pháp luật còn chưa hoàn thiện, nguy cơ cán bộ lợi dụng chức vụ để mưu lợi cá nhân càng lớn. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây mất niềm tin của người dân vào bộ máy chính quyền cơ sở.
Thứ ba, bất cập trong cơ chế phân cấp, phân quyền đi kèm với trách nhiệm giải trình.
Trong xu thế hiện nay, Nhà nước đang đẩy mạnh phân cấp, phân quyền để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Tuy nhiên, tại cấp xã, việc phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa cấp xã và cấp tỉnh, giữa các phòng, ban chuyên môn của các sở với các phòng thuộc UBND xã chưa thật sự rõ ràng. Nhiều lĩnh vực vẫn xảy ra chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm hoặc ngược lại, vượt quá thẩm quyền. Khi trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức cấp xã chưa được quy định cụ thể và chưa có cơ chế thực thi nghiêm minh, việc kiểm soát quyền lực trở nên lỏng lẻo, dễ tạo khoảng trống cho sai phạm.
Thứ tư, hệ thống pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành còn thiếu đồng bộ và chưa theo kịp yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của chính quyền cấp xã vẫn còn một số bất cập, thiếu thống nhất. Nhiều quy định chậm được sửa đổi, bổ sung, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất giữa các địa phương. Khi hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, cán bộ cấp xã gặp khó khăn trong việc thực hiện, có thể dẫn đến tình trạng tùy tiện trong áp dụng, thậm chí vi phạm pháp luật mà khó bị xử lý triệt để.
Thứ năm, hạn chế trong việc áp dụng chuyển đổi số và cải cách hành chính.
Mặc dù chủ trương xây dựng chính quyền số, xã hội số đã triển khai, song ở cấp xã, hạ tầng công nghệ thông tin còn yếu, nhân lực chưa thành thạo, quy trình làm việc điện tử chưa đồng bộ. Nhiều xã vùng sâu, vùng xa chưa đủ điều kiện kỹ thuật để áp dụng dịch vụ công trực tuyến. Điều này không chỉ làm chậm tiến độ cải cách hành chính, mà còn khiến người dân tiếp tục chịu phiền hà khi thực hiện thủ tục trực tiếp. Trong bối cảnh toàn quốc đang thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số, sự chậm trễ này có thể cản trở đổi mới và phát triển hành chính hiện đại, ảnh hưởng đến chất lượng phục vụ Nhân dân.
Thứ sáu, sự giám sát của Nhân dân và các tổ chức chính trị – xã hội còn hạn chế.
Mặc dù cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tại địa phương đã được quy định nhưng trên thực tế, hoạt động giám sát ở cấp xã còn hình thức, thiếu chiều sâu. Có tình trạng, người dân ngại va chạm, không mạnh dạn tố cáo sai phạm của cán bộ, công chức. Chính vì vậy, vi phạm ở cơ sở nhiều khi kéo dài, chỉ khi có hậu quả nghiêm trọng mới bị phát hiện.
Thứ bảy, áp lực ngày càng cao về trách nhiệm giải trình và yêu cầu công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ ở cấp xã.
Trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số, người dân ngày càng đòi hỏi chính quyền phải minh bạch, công khai, giải quyết công việc nhanh chóng, đúng pháp luật. Tuy nhiên, nhiều cán bộ, công chức cấp xã vẫn giữ thói quen hành chính quan liêu, thiếu tinh thần phục vụ. Khoảng cách giữa yêu cầu của xã hội và năng lực thực tế của chính quyền cấp xã ngày càng lớn, tạo áp lực nặng nề cho bộ máy cơ sở.
Như vậy, vận hành chính quyền cấp xã trong bối cảnh hiện nay còn nhiều hạn chế và nguy cơ, gắn với cả yếu tố con người, cơ chế, chính sách, pháp luật và điều kiện kỹ thuật. Đặc biệt, trong điều kiện phân cấp, phân quyền mạnh, khi yêu cầu trách nhiệm giải trình và minh bạch ngày càng cao, trong khi pháp luật và hạ tầng chuyển đổi số chưa hoàn thiện, những hạn chế này có thể trở thành điểm nghẽn trong xây dựng và vận hành chính quyền địa phương hai cấp. Điều đó đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, như: nâng cao năng lực cán bộ, hoàn thiện pháp luật, đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường giám sát và xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả nhằm bảo đảm chính quyền cấp xã thực sự là nền tảng vững chắc của hệ thống chính trị và là công bộc tận tụy của Nhân dân.
(2) Thách thức.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm, chính là chuẩn mực đạo đức, nền tảng của cán bộ, đảng viên, đồng thời, là phương châm hành động để xây dựng một nền hành chính trong sạch, hiệu quả, phục vụ Nhân dân. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt là ở cấp xã – cấp chính quyền gần dân nhất thì việc thực hành những phẩm chất này đối diện nhiều thách thức.
Một là, thách thức trong thực hành “Cần”.
“Cần” là siêng năng, tận tụy với công việc, luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, nhiều cán bộ, công chức cấp xã hiện nay gặp khó khăn trong việc duy trì tinh thần cần cù do khối lượng công việc lớn nhưng chế độ đãi ngộ còn hạn chế. Mức lương, phụ cấp chưa tương xứng với nhiệm vụ và áp lực công việc, khiến một bộ phận cán bộ chưa thực sự toàn tâm toàn ý cống hiến. Ngoài ra, năng lực chuyên môn chưa đồng đều dẫn đến tình trạng trì trệ, thụ động, làm việc cầm chừng, thiếu tinh thần trách nhiệm. Thói quen hành chính quan liêu “đến hẹn lại lên” còn tồn tại, cản trở việc thực hành tinh thần “cần” theo đúng nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
Hai là, thách thức trong thực hành “Kiệm”.
“Kiệm” không chỉ là tiết kiệm tiền bạc, của cải mà còn là tiết kiệm thời gian, nguồn lực xã hội và ngân sách nhà nước. Trong điều kiện phân cấp mạnh mẽ hiện nay, chính quyền cấp xã được giao quản lý nhiều lĩnh vực như ngân sách địa phương, đầu tư cơ sở hạ tầng, quản lý đất đai… Thách thức đặt ra là làm thế nào để sử dụng hiệu quả nguồn lực hạn hẹp, tránh lãng phí, thất thoát. Thực tế cho thấy, nhiều nơi vẫn còn tình trạng chi tiêu hành chính phô trương, tổ chức hội họp, lễ lạt rườm rà, sử dụng công quỹ thiếu tiết kiệm. Việc ứng dụng công nghệ số để tiết kiệm chi phí, giảm thủ tục còn hạn chế dẫn đến lãng phí thời gian và công sức của cả cán bộ, công chức và người dân. Trong bối cảnh ngân sách địa phương khó khăn, yêu cầu thực hành “Kiệm” càng trở nên cấp thiết nhưng cũng là một thách thức lớn.
Ba là, thách thức trong thực hành “Liêm”.
“Liêm” là sự trong sạch, liêm khiết, không tham lam lợi ích riêng, không lợi dụng chức quyền để mưu cầu cá nhân. Đây là chuẩn mực khó thực hiện nhất trong bối cảnh chính quyền cấp xã thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với lợi ích thiết thực của người dân, từ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng thực hồ sơ, xác nhận chính sách đến triển khai các gói hỗ trợ xã hội… Khi quyền lực công được trao mà cơ chế kiểm soát chưa chặt chẽ, cán bộ dễ rơi vào cám dỗ của tham nhũng vặt, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho dân.
Thực tiễn cho thấy, ở nhiều nơi, người dân vẫn phải “bôi trơn” mới giải quyết được việc, hay nảy sinh tình trạng ưu ái người quen, dòng họ… Thách thức lớn nhất trong thực hành “Liêm” chính là phải vượt qua những cám dỗ lợi ích nhỏ nhưng thường xuyên và gần gũi này, điều mà không phải ai cũng đủ bản lĩnh để thực hiện.
Bốn là, thách thức trong thực hành “Chính”.
“Chính” là ngay thẳng, chính trực, công tâm, đặt lợi ích tập thể, nhân dân lên trên hết. Trong điều kiện phân cấp, phân quyền mạnh, cán bộ cấp xã phải xử lý nhiều tình huống phức tạp, đòi hỏi sự công bằng và minh bạch. Tuy nhiên, tác động của quan hệ dòng họ, làng xã, tình cảm cá nhân vẫn còn khá nặng nề ở nông thôn, tạo áp lực cho cán bộ trong việc ra quyết định. Nhiều khi cán bộ khó giữ được sự công tâm tuyệt đối, dễ bị chi phối bởi “quan hệ – tiền tệ – hậu duệ”, dẫn đến xử lý thiếu minh bạch, gây bất bình trong nhân dân. Thực hành “Chính” đòi hỏi bản lĩnh, sự kiên định và tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm, nhưng đây chính là điểm yếu của một bộ phận cán bộ cơ sở hiện nay.
Năm là, thách thức từ yêu cầu trách nhiệm giải trình và sự giám sát xã hội ngày càng cao.
Trong bối cảnh xã hội thông tin, người dân ngày càng có nhiều công cụ để theo dõi, giám sát hoạt động của chính quyền. Các hành vi thiếu cần mẫn, lãng phí, thiếu liêm khiết hoặc thiếu công tâm dễ dàng bị phát hiện và phản ánh qua mạng xã hội, báo chí. Điều này tạo áp lực lớn đối với cán bộ cấp xã trong việc duy trì hình ảnh đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”. Tuy nhiên, do thói quen hành chính cũ, nhiều cán bộ vẫn chưa quen với việc giải trình minh bạch trước dân, dẫn đến những khoảng cách, hiểu lầm hoặc xung đột giữa người dân, cộng đồng, xã hội với năng lực và kết quả thực thi công vụ.
Sáu là, thách thức từ hệ thống thể chế và pháp luật chưa hoàn thiện.
Một trong những điều kiện để cán bộ thực hành “cần, kiệm, liêm, chính” là phải có khung pháp lý rõ ràng, minh bạch và cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chính quyền cấp xã hiện nay còn thiếu thống nhất, nhiều quy định chồng chéo, tạo ra khoảng trống pháp lý. Khi chưa có quy định cụ thể, cán bộ dễ lúng túng, áp dụng tùy tiện hoặc bị lợi dụng. Điều này khiến việc thực hành bốn phẩm chất đạo đức nêu trên gặp nhiều trở ngại, nhất là trong bối cảnh quản lý ngân sách, đất đai, đầu tư công và các hoạt động văn hóa, xã hội… phải bảo đảm tiến độ và kế hoạch đặt ra.
Bảy là, thách thức từ quá trình chuyển đổi số chưa hoàn thiện.
Chuyển đổi số là công cụ quan trọng để giảm thiểu nhũng nhiễu, nâng cao tính công khai, minh bạch và hiệu quả công vụ. Tuy nhiên, tại nhiều xã, hạ tầng công nghệ thông tin còn yếu, cán bộ thiếu kỹ năng số, hệ thống dịch vụ công trực tuyến chưa vận hành đồng bộ. Điều này không chỉ làm chậm quá trình cải cách hành chính mà còn khiến cho việc thực hành “Kiệm” (tiết kiệm thời gian, nguồn lực) và “Chính” (công khai, minh bạch) gặp khó khăn. Nếu không khắc phục, sự chậm trễ trong chuyển đổi số sẽ là rào cản lớn để cán bộ cấp xã hiện thực hóa các chuẩn mực đạo đức công vụ.
Tám là, thách thức từ sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với hội nhập quốc tế sâu rộng, nhiều giá trị vật chất và các “giá trị thực dụng khác” đang len lỏi vào đời sống xã hội. Cán bộ, công chức cấp xã – những người gần dân nhất – dễ bị tác động bởi lối sống thực dụng, chạy theo lợi ích cá nhân, xa rời chuẩn mực đạo đức cách mạng. Thực hành “Liêm” và “Chính” trở nên khó khăn hơn trong bối cảnh sự cạnh tranh lợi ích ngày càng gay gắt, nhất là khi chính quyền cấp xã có vai trò quyết định trong nhiều lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống người dân.
Chín là, thách thức từ chính bản thân đội ngũ cán bộ, công chức.
Thực hành “cần, kiệm, liêm, chính” không chỉ đòi hỏi cơ chế, chính sách phù hợp, mà còn phụ thuộc trực tiếp vào ý thức, bản lĩnh và phẩm chất cá nhân của từng cán bộ. Hiện nay, ở nhiều địa phương, công tác tuyển chọn, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cấp xã còn hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát, xử lý sai phạm chưa nghiêm. Một bộ phận cán bộ chưa thực sự coi bốn phẩm chất trên là kim chỉ nam trong hành động mà chỉ xem đó như khẩu hiệu mang tính hình thức. Thách thức lớn nhất chính là làm sao chuyển hóa các giá trị đạo đức này thành hành vi tự giác, bền vững trong đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
Trong bối cảnh hiện nay, việc thực hành “Cần, kiệm, liêm, chính” đối với cán bộ, công chức cấp xã không chỉ là yêu cầu đạo đức mà còn là điều kiện tiên quyết để xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, phục vụ Nhân dân. Tuy nhiên, hàng loạt thách thức từ điều kiện khách quan (pháp luật, cơ chế, chuyển đổi số, áp lực xã hội) đến yếu tố chủ quan (năng lực, phẩm chất, ý thức) đang cản trở quá trình này. Để vượt qua, cần đồng thời nâng cao năng lực, siết chặt kỷ luật, cải cách hành chính, đẩy mạnh chuyển đổi số và đặc biệt chú trọng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, công chức.
3. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính” trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
Thứ nhất, xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng “cần, kiệm, liêm, chính” theo hướng tăng cường thực hành đối với cán bộ, công chức cấp xã.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cần chủ trì xây dựng và phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng về cần, kiệm, liêm, chính theo hướng tăng cường thực hành. Đối tượng đào tạo, bồi dưỡng là cán bộ, công chức cấp xã hiện nay, bao gồm cả cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách và những người trong diện quy hoạch nguồn cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng dựa trên tính logic và mối quan hệ chặt chẽ giữa bốn giá trị của cần, kiệm, liêm, chính. Trong đó, cần chú ý cân đối thời lượng giữa lý thuyết và tăng cường thực hành trong chương trình. Nội dung thực hành phải có những tình huống mô phỏng hoặc gắn với thực tiễn công tác lãnh đạo, quản lý và thực thi công vụ của cán bộ, công chức cấp xã.
Cần xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá kết quả học tập khóa đào tạo, bồi dưỡng dựa trên năng lực thực hành và giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Chương trình nên quy định sự đa dạng của đội ngũ giảng viên của chương trình, cần nhiều chuyên gia, nhà quản trị, quản lý, Việt kiều đã và đang giữ vị trí lãnh đạo, quản lý và thực thi trong các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội uy tín trong và ngoài nước tham gia trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng…
Phối hợp với các trường chính trị tỉnh để cụ thể hóa chương trình thành khóa học phù hợp điều kiện đặc thù của từng địa phương. Tỉnh ủy, UBND các tỉnh ban hành kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, bảo đảm ngân sách và tạo điều kiện cho cán bộ, công chức cấp xã tham gia. Các tỉnh cần bố trí ngân sách nhà nước cho đào tạo, bồi dưỡng và tăng cường hệ thống giảng viên có kinh nghiệm thực tiễn để giảng dạy. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ học tập, nhất là ứng dụng học tập trực tuyến và học máy, Robot, AI… Chỉ khi đào tạo, bồi dưỡng được coi là quyền lợi và nghĩa vụ bắt buộc thì cán bộ, công chức xã mới có thể nâng cao tầm nhìn, tránh tư duy “làm việc theo thói quen” hiện nay.
Thứ hai, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn đánh giá đạo đức công vụ, đặc biệt chú trọng tiêu chuẩn thực hành cần, kiệm, liêm, chính cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Cần xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá về đạo đức công vụ thống nhất trên phạm vi cả nước, trong đó có tiêu chuẩn thực hành cần, kiệm, liêm, chính cho đội ngũ cán bộ công chức cấp xã. Đây là đội ngũ gần dân, trực tiếp giải quyết công việc đời sống hằng ngày của người dân, nên mọi hành vi thiếu chuẩn mực sẽ dễ dàng tạo nên hiệu ứng tích cực hoặc tiêu cực.
Tiêu chuẩn đánh giá cần xây dựng theo logic và mối quan hệ chặt chẽ giữa bốn giá trị của cần, kiệm, liêm, chính thông qua hành vi, các chỉ số và thang đo theo KPI. Để tiêu chuẩn này đi vào đời sống, cần có phương pháp tiến hành, không chỉ tuyên truyền, giáo dục mà còn ràng buộc trách nhiệm thông qua cơ chế thi đua, khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh. Các trường chính trị tỉnh cần lồng ghép nội dung các bài học về cần, kiệm, liêm, chínhvào chương trình đào tạo, bồi dưỡng khác, phù hợp. Cấp ủy và UBND các cấp tăng cường kiểm tra định kỳ, đột xuất và ứng dụng chuyển đổi số vào công tác kiểm tra, giám sát thực hành cần, kiệm, liêm, chính; khuyến khích các lực lượng xã hội tham gia và có cơ chế bảo vệ người tố cáo về vi phạm cần, kiệm, liêm, chính của cán bộ, công chức.
Thứ ba, hoàn thiện quy định pháp luật, cơ chế phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức cấp xã.
Cần rà soát các quy định chồng chéo; ban hành văn bản pháp lý bảo đảm rõ ràng, phân cấp đi đôi với phân quyền và phân quyền đi đôi với trách nhiệm giải trình. Việc hoàn thiện này sẽ là cơ sở để đánh giá thực hành cần, kiệm, liêm, chính của cán bộ, công chức cấp xã. Đặc biệt, ban hành quy chế hoạt động nội bộ của HĐND, UBND xã gắn với phân cấp, phân quyền cho các bên liên quan và gắn với đặc thù của từng xã.
Phân cấp, phân quyền tại cấp xã phải gắn với vị trí việc làm và trách nhiệm giải trình của mỗi thành viên trong chính quyền cấp xã. Cần xây dựng cơ chế phân định, phân cấp, phân quyền trong vận hành chính quyền cấp xã dựa trên tư duy và thực hành của dữ liệu số và vận hành chính quyền số; dựa trên bản chất vận hành của công nghệ quản trị số và dữ liệu số để xây dựng mà không xây dựng như cách xây dựng truyền thống.
Thứ tư, tập trung chuyển đổi số và nâng cao năng lực công nghệ thông tin cho cán bộ, công chức cấp xã.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vốn còn hạn chế về kỹ năng số, vì vậy cần được tập huấn kỹ năng sử dụng phần mềm quản lý hành chính, triển khai dịch vụ công trực tuyến mức độ cao; đồng thời, áp dụng phần mềm minh bạch hóa quy trình xử lý hồ sơ. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các trường chính trị tỉnh cần bổ sung nội dung “chuyển đổi số trong quản trị công” vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng gắn với việc mô phỏng xử lý thủ tục trên nền tảng số. Để bảo đảm thực thi hiệu quả giải pháp này cần đầu tư hạ tầng viễn thông, công nghệ thông tin, hệ thống máy tính đồng bộ, ngân sách dành cho chuyển đổi số và đội ngũ kỹ thuật hỗ trợ tận cơ sở. Chỉ khi chuyển đổi số thành công, chính quyền xã mới thật sự minh bạch, rút ngắn khoảng cách giữa Chính quyền và người dân.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát và nêu cao trách nhiệm giải trình của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Tăng cường vai trò của các thiết chế giám sát của cấp ủy, HĐND và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp cơ sở, hướng vào đối tượng cán bộ, công chức cấp xã, đặc biệt những người nắm giữ vị trí liên quan đến lãnh đạo, quản lý và tài chính. Tăng cường thanh tra, kiểm tra định kỳ, công khai kết quả xử lý; đồng thời, áp dụng công nghệ trong giám sát (camera hành chính, sổ tay điện tử công vụ, phần mềm điều hành công vụ…). Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định rõ cơ chế xử lý sai phạm, cơ sở dữ liệu phục vụ giám sát, kiểm tra, đánh giá; cơ chế bảo vệ cán bộ dám nói thật, dám đấu tranh chống tiêu cực. Giải pháp này sẽ bảo đảm việc rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính không chỉ dừng ở tuyên truyền mà được thể chế hóa bằng cơ chế kiểm soát quyền lực.
Thứ sáu, bảo đảm điều kiện nguồn lực, thu nhập và môi trường công tác cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Đội ngũ cán bộ xã chịu áp lực lớn về công việc nhưng chế độ đãi ngộ còn thấp. Vì vậy cần nâng dần chế độ lương, phụ cấp, bảo đảm điều kiện làm việc và trang thiết bị hiện đại. Đồng thời, tạo môi trường công tác minh bạch, công bằng, có cơ hội thăng tiến rõ ràng và phù hợp với đặc thù từng xã. Cần bố trí ngân sách hợp lý, chính sách cải cách tiền lương; đồng thời, có cơ chế khuyến khích cán bộ xã giỏi, gắn bó lâu dài với chính quyền cấp xã. Khi môi trường công tác được cải thiện, cán bộ sẽ yên tâm cống hiến, giữ vững tốt phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính.
4. Kết luận
Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là chuẩn mực đạo đức, nền tảng mà còn là kim chỉ nam để hình thành phong cách làm việc công tâm, minh bạch, trách nhiệm và gần dân, bảo đảm chính quyền cơ sở vận hành hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong bối cảnh phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, yêu cầu chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Chú thích:
1. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 6. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 117 – 131.
Tài liệu tham khảo:
1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2021). Tài liệu bồi dưỡng kiến thức kinh điển Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tập 3. H. NXB Lý luận chính trị.
2. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1930). Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013). Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 về hội nhập quốc tế.
8. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
9. XYZ (2015). Sửa đổi lối làm việc. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
10. Quốc hội (2025). Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025.
11. Vận dụng lý luận về tư bản kinh doanh hàng hóa và lợi nhuận thương nghiệp của C. Mác trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 11/6/2025.
12. Vận dụng lý luận về kinh tế tư bản nhà nước của V.I. Lênin trong phát triển kinh tế nhà nước ở nước ta. https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 14/8/2025.