ThS. Vương Thành Chung
Bộ Công Thương
NCS của Học viện Hành chính và Quản trị công
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu đang chuyển dịch mạnh mẽ sang mô hình phát triển bền vững, kinh tế tuần hoàn đã trở thành xu thế tất yếu nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm và nâng cao hiệu quả sản xuất. Ngành hóa chất – một lĩnh vực có tác động trực tiếp đến nhiều ngành kinh tế khác nhưng cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với môi trường và sức khỏe con người, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ, toàn diện từ phía Nhà nước. Chính vì vậy, bài viết tập trung phân tích nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất nhằm mục tiêu phát triển một nền kinh tế tuần hoàn xanh, bền vững ở Việt Nam.
Từ khóa: Quản lý nhà nước; lý luận; sản xuất – kinh doanh hóa chất; phát triển kinh tế tuần hoàn.
1. Đặt vấn đề
Hóa chất hiện diện trong hầu hết các lĩnh vực sản xuất, từ quy trình công nghiệp, hoạt động tại nhà máy, xí nghiệp cho đến ngành chế biến thực phẩm. Điểm nổi bật của ngành này là sự phong phú về chủng loại sản phẩm, vừa đáp ứng nhu cầu đa dạng vừa đóng vai trò đầu vào cho nhiều ngành kinh tế khác. Do đó, công nghiệp hóa chất khai thác nhiều nguồn tài nguyên quốc gia, bao gồm khoáng sản, dầu khí, các sản phẩm, phụ phẩm cũng như chất thải từ sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, đồng thời tạo việc làm cho lực lượng lao động lớn. Ngành này giữ vị trí trọng yếu trong nền kinh tế của mọi quốc gia và hiện là lĩnh vực sản xuất lớn thứ năm trên thế giới. Theo báo cáo “Ngành công nghiệp hóa chất toàn cầu: Thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết các thách thức về tính bền vững của thế giới” do Hiệp hội Hóa chất quốc tế (ICCA) phát hành năm 2019, mỗi năm công nghiệp hóa chất đóng góp khoảng 5.700 tỷ USD cho GDP toàn cầu thông qua tác động trực tiếp và gián tiếp, chiếm gần 7% GDP thế giới, đồng thời tạo ra gián tiếp khoảng 120 triệu việc làm trên phạm vi toàn cầu1.
Hiện nay, các hoạt động sản xuất – kinh doanh và tiêu thụ hóa chất ngày càng mở rộng với tốc độ nhanh chóng. Những lĩnh vực như sản xuất phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, hóa dầu, hóa chất cơ bản, pin – ắc quy, khí công nghiệp, cao su, chất tẩy rửa, sơn, dược phẩm… đều giữ vị trí then chốt trong tiến trình phát triển bền vững của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng kéo theo nhiều thách thức lớn liên quan đến môi trường, sức khỏe cộng đồng và vấn đề biến đổi khí hậu.
Chính vì vậy, việc xây dựng một chu trình quản lý bền vững đối với hóa chất và chất thải là hết sức quan trọng nhằm phát huy tối đa lợi ích kinh tế; đồng thời bảo đảm sự an toàn cho cộng đồng và đóng góp vào sự phát triển thịnh vượng của mỗi quốc gia. Thực tiễn cho thấy, quản lý hóa chất đóng vai trò trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế tuần hoàn. Đây là một chủ đề rộng gắn liền với nhiều sáng kiến đang được triển khai, như: thúc đẩy sử dụng hóa chất an toàn trong nền kinh tế tuần hoàn để loại bỏ các chất độc hại ra khỏi sản phẩm tái chế; chuyển đổi từ mô hình bán hóa chất truyền thống sang cung cấp dịch vụ; tái sử dụng hóa chất thông qua xử lý, biến đổi chất thải và thay thế hóa chất xanh nhằm thay cho các quy trình tuyến tính, hướng tới mô hình sản xuất tuần hoàn và bền vững hơn.
Để quản lý hiệu quả hóa chất và chất thải, đồng thời hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững cần thiết phải chuyển đổi từ mô hình kinh tế tuyến tính truyền thống sang kinh tế tuần hoàn. Xu thế chuyển dịch kinh tế theo hướng tuần hoàn, xanh và phát thải các-bon thấp đã trở thành tất yếu trong thời đại ngày nay, nhận được sự đồng thuận rộng rãi trên toàn cầu; đồng thời, được coi là “cuộc cách mạng công nghiệp xanh” của thế kỷ XXI, mở ra cơ hội để các quốc gia cùng hành động, thực hiện những cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, qua đó bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững vì sức khỏe cộng đồng, hệ sinh thái tự nhiên và tương lai của trái đất.
2. Nội dung quản lý sản xuất – kinh doanh hóa chất hướng đến phát triển kinh tế tuần hoàn
2.1. Xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật về sản xuất – kinh doanh hóa chất gắn với yêu cầu của nền kinh tế tuần hoàn
Để triển khai quản lý nhà nước (QLNN) đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất, Nhà nước cần xây dựng và ban hành hệ thống văn bản pháp lý để điều chỉnh đối với tất cả các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất – kinh doanh hóa chất, như: quy định về các điều kiện sản xuất – kinh doanh hóa chất, quy định về yêu cầu chuyên môn, về cơ sở vật chất, về bảo đảm an toàn trong sản xuất – kinh doanh hóa chất, quy định về danh mục hóa chất sản xuất – kinh doanh có điều kiện; danh mục hóa chất hạn chế sản xuất – kinh doanh; trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận, giấy phép; các quy định về phòng ngừa và ứng phó sự cố hóa chất…
Hệ thống pháp luật điều chỉnh sản xuất – kinh doanh hóa chất, bao gồm: các văn bản luật về hóa chất, về sản xuất – kinh doanh hóa chất; các văn bản dưới luật do Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương ban hành nhằm hướng dẫn triển khai các văn bản luật về hóa chất và sản xuất – kinh doanh hóa chất. Hệ thống văn bản quản lý được Nhà nước sử dụng nhằm tạo ra một khuôn khổ pháp lý, một môi trường trường kinh doanh thuận lợi, hướng dẫn các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức cá nhân và doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh hóa chất. Đồng thời, Nhà nước xác định rõ các chế tài xử lý các hành vi vi phạm liên quan đến những quy định pháp lý trong lĩnh vực hóa chất… qua đó, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên liên quan cũng như bảo đảm an toàn, phòng ngừa các sự cố hóa chất, phục vụ mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.
2.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về sản xuất – kinh doanh hóa chất hướng đến phát triển kinh tế tuần hoàn
Các dự án đầu tư, các hoạt động sản xuất – kinh doanh hóa chất thường đòi hỏi yêu cầu rất cao về kỹ thuật, về mức độ an toàn cũng như mức đầu tư lớn. Do đó, việc bố trí về quy hoạch phát triển ngành hóa chất, quy hoạch về vị trí xây dựng nhà máy, quy hoạch về phân bổ nguồn lực cho phát triển công nghiệp hóa chất… cần phải được lập kế hoạch chặt chẽ và có dự toán. Việc triển khai hiệu quả nhiệm vụ này sẽ tạo nền tảng quan trọng giúp các ngành và địa phương chủ động nâng cao năng lực quản lý nhà nước, xây dựng định hướng rõ ràng, phân bổ nguồn lực hợp lý; đồng thời, khắc phục tình trạng chồng chéo, thiếu nhất quán, dàn trải và gây lãng phí ngân sách.
Quy hoạch tạo ra động lực phát triển bền vững của vùng, miền; kiểm soát được quá trình sản xuất – kinh doanh hóa chất; là căn cứ để xử lý, giải quyết những vấn đề phát sinh trong hoạt động sản xuất – kinh doanh các sản phẩm hóa chất.
2.3. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất
Bộ máy QLNN đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất, gồm: cấp trung ương và địa phương. Cấp trung ương bao gồm: Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ và các bộ quản lý ngành (Bộ Công Thương, Bộ Tài chính và Bộ Tài nguyên Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Thanh tra Chính phủ… Cấp địa phương, gồm: Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn ở mỗi cấp… Mỗi cơ quan trong bộ máy thực hiện chức năng riêng biệt, đảm nhận quản lý một hoặc một số khâu trong toàn bộ quá trình thực hiện các hoạt động liên quan đến QLNN về sản xuất – kinh doanh hóa chất.
Trong quá trình xây dựng bộ máy quản lý nhà nước, một yếu tố then chốt là thiết lập cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và đơn vị có liên quan. Dưới góc độ quản lý, phối hợp được hiểu là phương thức, quy trình hay hình thức kết nối hoạt động giữa các chủ thể nhằm bảo đảm việc thực hiện đầy đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, qua đó hướng tới lợi ích chung. Sự phối hợp hiện diện xuyên suốt tiến trình quản lý, với mục tiêu cuối cùng là tạo sự thống nhất, đồng thuận và nâng cao chất lượng, hiệu quả điều hành.
Bên cạnh đó, trong công tác cán bộ, nguyên tắc bố trí, sắp xếp nhân sự trong hệ thống quản lý đòi hỏi phải bảo đảm đủ về số lượng, phù hợp với năng lực, trình độ chuyên môn và thế mạnh của từng cá nhân theo từng vị trí công chức tại các cơ quan quản lý.
Trong hệ thống QLNN, có sự tham gia của nhiều cấp, ngành và cơ quan khác nhau; do vậy, để bộ máy vận hành thông suốt, hiệu quả và có trách nhiệm, cần xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của từng cấp quản lý cũng như từng cơ quan, đơn vị trong quá trình thực thi công vụ. Quá trình phân công, phân cấp phải được thực hiện trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau:
(1) Phân cấp phải gắn liền với sự minh bạch về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, đồng thời bảo đảm công khai, nâng cao tính giải trình.
(2) Phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của từng địa phương trong từng giai đoạn, tính chất đặc thù của ngành, lĩnh vực cũng như điều kiện phát triển ở từng vùng, lãnh thổ, khu vực đô thị hay nông thôn.
(3) Đáp ứng năng lực quản lý, điều hành của mỗi cấp chính quyền, gắn với khả năng cân đối nguồn lực để thực hiện; đồng thời, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các ngành, lĩnh vực.
(4) Tăng cường trách nhiệm theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra và thanh tra của các bộ, ngành trung ương trong việc thực thi phân cấp; đồng thời, xử lý nghiêm trách nhiệm khi có vi phạm; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương hành chính và phát huy dân chủ để người dân tham gia vào hoạt động QLNN.
2.4. Ban hành và tổ chức thực thi các chính sách quản lý về sản xuất và kinh doanh hóa chất hướng đến nền kinh tế tuần hoàn
Trong QLNN nói chung và trong quản lý về sản xuất – kinh doanh hóa chất nói riêng, hệ thống chính sách đóng vai trò hết sức quan trọng. Một số chính sách chủ yếu được sử dụng như:
Một là, các chính sách đối với chủ thể sản xuất – kinh doanh hóa chất: các quy định về điều kiện kinh doanh, đăng ký kinh doanh, các quy định về giao kết hợp đồng mua – bán hóa chất, các quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khi thực hiện sản xuất – kinh doanh hóa chất…
Hai là, các chính sách về hóa chất và sản phẩm hóa chất: quy định về danh mục hóa chất, các quy định về khai báo, đăng ký, cung cấp thông tin hóa chất, các quy định về chất lượng, tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật trong sản xuất – kinh doanh, bảo quản và lưu trữ hóa chất…
Ba là, các chính sách về mua bán, trao đổi, xuất nhập khẩu… đối với sản phẩm hóa chất: Nhànước có các quy định về hoạt động phân phối hóa chất, các hoạt động xúc tiến thương mại đối với sản phẩm hóa chất, các hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh… qua đó, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất – kinh doanh hóa chất triển khai hiệu quả hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành các chính sách vĩ mô trong quản lý thương mại nhằm hỗ trợ cho hoạt động quản lý sản xuất – kinh doanh hóa chất, cụ thể:
(1) Chính sách thuế quan: thông qua các loại thuế như thuế xuất, nhập khẩu đối với hóa chất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh, Nhà nước có thể tác động trực tiếp đến thị trường hóa chất. Nhờ vậy, Nhà nước vừa có thể khuyến khích, vừa có thể kiểm soát, hạn chế sự phát triển của ngành này tùy theo từng giai đoạn.
(2) Chính sách xuất, nhập khẩu:việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với một số loại hóa chất giúp Nhà nước điều chỉnh khối lượng sản phẩm đưa vào thị trường trong nước, góp phần cân đối cung – cầu. Song song đó, Nhà nước có thể thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu (nếu có) để hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế. Đồng thời, các quy định về giấy phép xuất, nhập khẩu được áp dụng đối với những loại hóa chất kinh doanh có điều kiện hoặc thuộc diện hạn chế nhằm bảo đảm quản lý chặt chẽ.
(3) Chính sách phát triển hạ tầng và cơ sở vật chất: QLNN trong lĩnh vực hóa chất sẽ đạt hiệu quả cao hơn khi có sự đầu tư, hỗ trợ về hạ tầng. Điều này bao gồm hạ tầng công nghệ (hệ thống dữ liệu về tiêu chuẩn, quy chuẩn, danh mục hóa chất được phép sử dụng cùng hướng dẫn an toàn), hạ tầng giao thông vận tải cũng như hạ tầng thương mại như kho bãi, hệ thống phân phối hiện đại và logistics phục vụ cho sản xuất, lưu thông và kinh doanh hóa chất.

Bốn là, các chính sách về hỗ trợ nguồn lực cho sản xuất – kinh doanh hóa chất:
(1) Đối với các cơ quan QLNN:Nhà nước triển khai các chính sách phát triển nguồn nhân lực, tập trung vào đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt nhiệm vụ, phù hợp với đặc thù của lĩnh vực hóa chất. Qua đó, năng lực QLNN của đội ngũ này được nâng cao rõ rệt. Bên cạnh đó, Nhà nước còn chú trọng đầu tư cơ sở vật chất và ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động quản lý.
(2) Đối với các cơ sở sản xuất – kinh doanh hóa chất: Nhà nước có những chính sách hỗ trợ tiếp cận tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh, qua đó giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh hóa chất phục vụ cho các hoạt động sản xuất khác.
2.5. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất trong khuôn khổ phát triển kinh tế tuần hoàn
Trong mô hình kinh tế tuần hoàn, việc quản lý hóa chất không chỉ dừng ở khía cạnh an toàn – môi trường mà còn phải thúc đẩy tái sử dụng, tái chế, giảm thiểu chất thải và tối ưu hóa vòng đời của sản phẩm.Do đó, công tác giám sát giúp phát hiện kịp thời những sai phạm, như:sử dụng hóa chất cấm, không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn, xả thải độc hại…;đồng thời, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi sang quy trình sản xuất sạch hơn và quản lý chuỗi giá trị bền vững. Nội dung trọng tâm của thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh hóa chất gồm: quản lý sản xuất (kiểm soát công nghệ, quy trình, điều kiện an toàn); quản lý lưu thông, kinh doanh (giấy phép, nhãn mác, bảo quản, vận chuyển); quản lý môi trường (xử lý nước thải, khí thải, chất thải rắn chứa hóa chất) và xử lý vi phạm (trong đó có yêu cầu khắc phục hậu quả môi trường, tái chế hoặc thu hồi chất thải nguy hại).
Ở châu Âu, cơ chế REACH (Registration, Evaluation, Authorisation and Restriction of Chemicals) quy định nghiêm ngặt về đăng ký, đánh giá và hạn chế hóa chất. Thông qua hệ thống này, các hoạt động thanh tra, kiểm tra thường xuyên đã buộc doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ, ưu tiên nguyên liệu ít độc hại và thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn. Tại Việt Nam, theo Luật Hóa chất năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018, 2023), các doanh nghiệp vi phạm quy định an toàn hóa chất có thể bị phạt hàng trăm triệu đồng, buộc thu hồi và xử lý hóa chất tồn dư. Điều này tạo áp lực để doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ tuần hoàn, ví dụ như tái sử dụng dung môi hữu cơ hoặc xử lý nước thải để quay vòng.Qua công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm, Nhà nước không chỉ bảo đảm an toàn và bảo vệ môi trườngmà còn thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tái sử dụng tài nguyên, góp phần xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững.
3. Các nhân tố ảnh hưởng
3.1. Nhóm các nhân tố khách quan
Thứ nhất, sự ổn định chính trịvà phát triển của kinh tế – xã hội.
Một bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho Nhà nước dễ dàng ban hành, tổ chức thực hiện và áp dụng các biện pháp quản lý đối với lĩnh vực này; đồng thời, sự ổn định về kinh tế – xã hội cũng góp phần nâng cao hiệu quả của các cơ chế quản lý nhà nước trong sản xuất – kinh doanh hóa chất. Bên cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế đóng vai trò quan trọng, tác động mạnh mẽ đến xu hướng vận động của thị trường hóa chất nói chung và hoạt động sản xuất – kinh doanh hóa chất nói riêng. Ví dụ: ngành trồng trọt phát triển, đòi hỏi nhu cầu phân bón, thuốc trừ sâu; ngành công nghiệp xi măng, sắt thép phát triển, nhu cầu về các vật liệu đầu vào (đá vôi, quặng sắt, silic, bauxite…) ngày càng tăng cao; nếu thu nhập bình quân đầu người cao, mức sống của người dân tăng cao thì tỷ lệ chi cho thực phẩm an toàn cao, vì thế nhu cầu về các sản phẩm hóa chất cũng ngày càng phát triển… Tuy vậy, sự gia tăng nhu cầu về các sản phẩm hóa chất kéo theo số lượng doanh nghiệp tham gia sản xuất – kinh doanh trong lĩnh vực này ngày một nhiều hơn. Sự mở rộng quy mô đó khiến mức độ cạnh tranh giữa các đơn vị ngày càng gay gắt, dễ dẫn đến những hành vi thiếu lành mạnh, gây khó khăn cho công tác quản lý. Bên cạnh đó, khi thị trường hóa chất phát triển, chủng loại sản phẩm ngày càng phong phú và đa dạng, các cơ quan QLNN sẽ phải đối diện với thách thức lớn hơn trong việc kiểm soát chất lượng và bảo đảm an toàn đối với các sản phẩm lưu hành trên thị trường.
Thứ hai, các nhân tố thuộc về cộng đồng doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh hóa chất.
Cộng đồng doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh hóa chất có sự đa dạng về hình thức, loại hình kinh doanh từ các doanh nghiệp lớn với các nhà máy sản xuất hóa chất có quy mô tầm cỡ, chuyên phân phối các hóa chất là nguyên liệu đầu vào cho các cơ sở sản xuất công nghiệp khác. Bên cạnh đó, cũng có những cơ sở sản xuất – kinh doanh nhỏ, cung cấp một số sản phẩm hóa chất cho người tiêu dùng phục vụ hoạt động sinh hoạt hàng ngày (chế biến thức ăn, pha chế, tẩy rửa, tưới tiêu…). Sự đa đạng về loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp có sự ảnh hưởng đến quá trình thực hiện QLNNđối với sản xuất – kinh doanh hóa chất; đồng thời, đòi hỏi Nhà nước tăng cường các biện pháp quản lý nghiêm ngặt để bảo đảm an toàn.Việc nhận thức đúng, thực hiện nghiêm các quy định về sản xuất – kinh doanh như đúng các mặt ang theo đăng ký, theo danh mục cho phép, kèm theo có tư vấn, hướng dẫn… sẽ giúp giảm thiểu các nguy cơ có thể xảy ra khi sử dụng sản phẩm hóa chất.
3.2. Nhóm các nhân tố chủ quan
Một là, tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính sách, pháp luật về sản xuất – kinh doanh hóa chất.
Khi hệ thống chính sách được xây dựng đồng bộ, với các văn bản quản lý về sản xuất và kinh doanh hóa chất đầy đủ, hoàn chỉnh, phù hợp với quy định pháp luật quốc tế cũng như các hiệp định thương mại đã ký kết liên quan đến hoạt động kinh doanh, an toàn kỹ thuật hay các mặt hàng hóa chất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh, mở rộng hoạt động và phát triển thị trường. Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật trong quản lý sản xuất – kinh doanh hóa chất sẽ giúp cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp có định hướng rõ ràng, khai thác hiệu quả cơ hội, thuận lợi cũng như đề ra giải pháp phù hợp để ứng phó với các thách thức nảy sinh trong bối cảnh mới.
Hai là, các nhân tố thuộc về năng lực đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước các cấp
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước các cấp trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh hóa chất bao gồm kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ cùng phẩm chất đạo đức trong việc thực thi nhiệm vụ do Nhà nước giao phó. Trình độ và năng lực này có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả quản lý, thể hiện qua mức độ hiểu biết về hệ thống văn bản pháp luật, sự am hiểu thị trường hóa chất, tầm quan trọng của từng loại hóa chất cũng như khả năng vận dụng chuyên môn trong xử lý công việc. Thông qua các kỹ năng giải quyết tình huống phát sinh, cán bộ quản lý góp phần bảo đảm sự thông suốt trong quá trình quản lý. Đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất cần có kiến thức nhất định về các mặt hàng hóa chất để có thể nắm bắt những vấn đề liên quan đến các hành vi vi phạm của doanh nghiệp cơ sở hóa chất, kịp thời xử lý bảo đảm an toàn, bảo đảm cạnh trạnh trên thị trường. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước đối với sản xuất – kinh doanh hóachất rất cần sự trách nhiệm công tâm của đội ngũ cán bộ quản lý.
Ba là, mức độ ứng dụng cộng nghệ trong QLNN đối với sản xuất – kinh doanh hóa chất.
Trong bối cảnh kinh tế số phát triển mạnh mẽ, khoa học – công nghệ trở thành yếu tố có tác động sâu sắc đến hoạt động QLNN nói chung và quản lý sản xuất -kinh doanh hóa chất nói riêng. Sự ảnh hưởng này thể hiện qua việc đầu tư vào công nghệ, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị và các phần mềm quản lý, giúp các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ một cách chính xác, kịp thời và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ hiện đại cũng nâng cao hiệu quả thanh tra, giám sát nhờ các công cụ hỗ trợ kiểm định chất lượng hóa chất, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, từ đó phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh hóa chất.
4. Kết luận
QLNN đối với hoạt động sản xuất và kinh doanh hóa chất trong bối cảnh định hướng kinh tế tuần hoàn vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là xu thế tất yếu để bảo đảm phát triển bền vững. Đặc biệt, khi áp dụng nguyên tắc kinh tế tuần hoàn, công tác QLNN cần hướng đến việc kiểm soát chặt chẽ rủi ro môi trường, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tái chế – tái sử dụng; đồng thời, tạo lập thị trường minh bạch, công bằng cho các doanh nghiệp. Như vậy, lý luận về QLNN trong lĩnh vực này cho thấy, sự kết hợp giữa mục tiêu phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là nền tảng để ngành hóa chất phát triển theo hướng hiện đại, an toàn và bền vững, đóng góp tích cực vào tiến trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Chú thích:
1. Phát triển ngành công nghiệp hóa chất theo mô hình kinh tế tuần hoàn. http://www.cuchoachat.gov.vn/tin-tuc-su-kien/phat-trien-nganh-cong-nghiep-hoa-chat-theo-mo-hinh-cua-kinh-te-tuan-hoan.html
Tài liệu tham khảo:
1. Trần Thị Xuân Anh (2022). Kinh tế tuần hoàn: cơ hội và thách thức đối với phát triển bền vững tại Việt Nam. Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng số 242 (7/2022).
2. Chính phủ (2019). Nghị định số 71/2019/NĐ-CP ngày 30/8/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất và vật liệu nổ công nghiệp.
3. Cục Hóa chất (Bộ Công Thương). Báo cáo Tổng kết thực hiện nhiệm vụ và triển khai nhiệm vụ hằng năm. Hà Nội.
4. Quốc hội (2007, 2018, 2025). Luật Hóa chất năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2018, 2025).
5. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 726/QĐ-TTg ngày 16/6/2022về Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp hóa chất Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2040.
7. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 882/QĐ-TTg ngày 22/7/2022về Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021 – 2030.



