Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy các môn lý luận chính trị của giảng viên đại học hiện nay

Nguyễn Thị Thu Thuỷ
Trường Đại học Tài chính – Kế toán

(Quanlynhanuoc.vn) – Nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy các môn lý luận chính trị của giảng viên đại học là nội dung, biện pháp quan trọng để góp phần xây dựng đội ngũ nhà giáo phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay. Bài viết làm rõ những vấn đề cơ bản về ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy lý luận chính trị của giảng viên đại học; trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy các môn Lý luận chính trị của giảng viên đại học trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Từ khóa: Ứng dụng công nghệ số, các môn lý luận chính trị, giảng viên đại học, sinh viên.

1. Đặt vấn đề

Giảng viên lý luận chính trị là những người truyền cảm hứng, góp phần cung cấp cho sinh viên thế giới quan, niềm tin cách mạng và bản lĩnh chính trị. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và chuyển đổi số vừa mở ra nhiều cơ hội mới vừa đặt ra những thách thức to lớn đối với công tác giáo dục lý luận chính trị. Việc ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy không chỉ nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, dạy và học mà còn góp phần quan trọng vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng.

2. Các khái niệm liên quan

Một là, lý luận chính trị.

Lý luận chính trị là hệ thống các tri thức về lĩnh vực chính trị, thể hiện quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của một chính đảng, một giai cấp trong thực thi quyền lực chính trị, thể hiện thái độ, lợi ích giai cấp đối với quyền lực Nhà nước trong xã hội có giai cấp. Lý luận chính trị là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học, là một phần của kho tàng lý luận nhân loại, được tổng kết thực tiễn qua nhiều thế hệ.

Hai là, giáo dục lý luận chính trị.

Giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam nhằm trang bị cho người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học và niềm tin chính trị vững chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”1.

Ở các trường đại học, cao đẳng, các môn lý luận chính trị bao gồm: Triết học Mác – Lênin, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là những môn học vừa mang tính hàn lâm vừa mang tính định hướng chính trị – tư tưởng, đóng vai trò đặc biệt trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh chính trị và trách nhiệm công dân cho sinh viên.

Ba là, chuyển đổi số trong giáo dục.

Công nghệ thông tin bao gồm các công cụ, thiết bị, phần mềm và hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho việc thu thập, xử lý, lưu trữ, truyền tải và chia sẻ thông tin. Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số. Trong xu thế chuyển đổi số, công nghệ thông tin được mở rộng khái niệm sang “công nghệ số”, bao gồm các công nghệ lõi của các mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Bog Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud Computing). Chuyển đổi số trong giáo dục thực chất là nói đến ứng dụng công nghệ số với tính liên thông, tích hợp và thông minh hóa quá trình dạy – học ở các môn học, tăng tính hấp dẫn, thu hút người học vào học tập các môn lý luận chính trị.     

Chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị là quá trình sử dụng công cụ, phần mềm, nền tảng số và các phương tiện kỹ thuật để thiết kế, tổ chức, triển khai và đánh giá quá trình dạy – học các môn lý luận chính trị nhằm nâng cao chất lượng, tạo hứng thú, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học, đồng thời tăng cường khả năng giáo dục bản lĩnh chính trị cho sinh viên trong bối cảnh tác động phức tạp của mạng xã hội và các thông tin xấu độc trên mạng xã hội.

Các ứng dụng công nghệ vào giảng dạy, như: trong hệ thống quản lý học tập, soạn bài giảng sử dụng Canvas, Google Classroom; trong phương pháp dạy học, kết hợp giảng trực tiếp và giảng trực tuyến; trong học liệu số có bài giảng điện tử, video, thư viện số, infographic, podcast; sử dụng các công cụ tương tác, như: Kahoot, Quizizz…; sử dụng các công nghệ mới như Chat GPT đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị của giảng viên đại học cho sinh viên.

3. Thực trạng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong giáo dục lý luận chính trị

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về công nghệ thông tin, chuyển đổi số nhằm tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục – đào tạo. Ngày 04/11/2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Nghị quyết đề ra mục tiêu: tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Để thực hiện mục tiêu trên, một trong các nhiệm vụ đó là: nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học – công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ sở đào tạo. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và giao kinh phí sự nghiệp khoa học – công nghệ cho các cơ sở giáo dục đại học.

Ngày 27/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó nêu rõ, tận dụng có hiệu các cơ hội do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại để thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với thực hiện các đột phá chiến lược và hiện đại hóa đất nước; phát triển mạnh mẽ kinh tế số; phát triển nhanh và bền vững dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao; nâng cao chất lượng cuộc sống, phúc lợi của người dân; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường sinh thái. Nghị quyết đưa ra nhiệm vụ, hoàn thiện thể chế tạo thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình chuyển đổi số quốc gia.

Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Một trong những nội dung đó là, định hướng Việt Nam đến năm 2030 trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, doanh nghiệp phải coi chuyển đổi số quốc gia là một nhiệm vụ quan trọng trong chỉ đạo, điều hành. Ngày 05/8/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố 5 nhiệm vụ trọng tâm năm học 2025 – 2026, trong đó, đẩy mạnh chuyển đổi số và đổi mới quản trị trường học.

Trên cơ sở đó, giảng viên giảng dạy lý luận chính trị ứng dụng công nghệ số vào thực hành lên lớp. Nhiều trường học đã xây dựng hệ thống quản lý học tập-LMS (Learning Management System) riêng, tích hợp bài giảng điện tử, ngân hàng câu hỏi, diễn đàn trao đổi, 100% giảng viên lý luận chính trị đã tham gia giảng dạy, kiểm tra và coi thi trực tuyến. Các giảng viên đã tích cực tìm hiểu kiến thức công nghệ, nâng cấp thiết bị, thiết kế nhiều bài giảng sinh động, đổi mới các hình thức kiểm tra, thi kết thúc học phần các môn lý luận chính trị. Hiện nay, các trường đại học tiếp tục duy trì hình thức giảng dạy trực tuyến đối với một số học phần và có những quy định nhất định về số buổi giảng dạy trực tuyến.

Với sự phát triển của công nghệ thông tin, giảng viên chủ động hơn trong việc khai thác tài nguyên, dữ liệu số để đưa vào bài gỉảng. Giảng viên tiếp cận trên không gian số các tài liệu gốc, như: Văn kiện Đảng, Hồ Chí Minh toàn tập, các phim tư liệu lịch sử,… Giảng viên lý luận chính trị giao lưu học tập, nâng cao trình độ hơn qua các khóa học và hội thảo trực tuyến trong nước và quốc tế. Do đó, việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy thuận tiện hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian. Đồng thời, giảng viên hướng dẫn sinh viên tự nghiên cứu tài liệu, tiếp cận được nguồn tài nguyên khổng lồ từ sách điện tử, bài giảng mở, cơ sở dữ liệu khoa học. Việc hướng dẫn sinh viên tự nghiên cứu, khai giác dữ liệu số góp phần hình thành thế hệ công dân số với những kỹ năng tự học, tự nghiên cứu hiệu quả.

Ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số cho phép giảng viên thiết kế bài giảng đa dạng hóa, như: video, infographic, sơ đồ tư duy, câu hỏi trắc nghiệm trực tuyến… Những hình thức này giúp bài học bớt khô khan, tạo hứng thú học tập cho sinh viên đối với các môn lý luận chính trị, sinh viên có thể học tập ở mọi nơi, mọi lúc, học trực tuyến hoặc học lại bài giảng đã được ghi hình. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng trở nên sinh động gắn với thực tiễn, góp phần củng cố niềm tin chính trị đối với thế hệ trẻ.

Việc ứng dụng công nghệ số tạo ra sự đa dạng trong việc học tập, kiểm tra, thi các môn lý luận chính trị. Không chỉ thi kết thúc môn, giảng viên lý luận chính trị còn có thể tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu các môn lý luận chính trị. Việc tổ chức thi trực tuyến đã thu hút sinh viên tham gia, lan tỏa nhanh các kiến thức lý luận chính trị. Việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trên nền tảng số đã tạo ra hiệu ứng cao. Qua đó, sinh viên có thêm hình thức học tập, bồi dưỡng kiến thức, củng cố niềm tin, cố gắng học tập, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước.

Trong thời kỳ chuyển đổi số, giảng viên lý luận chính trị đã biết nắm bắt cơ hội, chủ động nắm công nghệ, thích ứng với tâm lý, nhu cầu học tập của thế hệ trẻ. Điều này đã rút ngắn khoảng cách giữa các thế hệ, giúp hai bên tương tác nhanh chóng. Việc ứng dụng công nghệ vào học tập, giảng dạy đã góp phần xây dựng môi trường học tập dân chủ, hiện đại, nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng sử dụng, ứng dụng của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị.

Nghị quyết số 71-NQ/TW chỉ rõ: “Nhiều chủ trương, chính sách lớn đã được ban hành, thúc đẩy giáo dục và đào tạo đổi mới, phát triển mạnh mẽ, đạt được những kết quả quan trọng. Việt Nam thuộc nhóm 21 quốc gia sớm đạt mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc đến năm 2030 về giáo dục chất lượng”2.

Tuy nhiên, việc giảng dạy lý luận chính trị của giảng viên còn một số hạn chế, như: một số giảng viên ứng dụng, sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy các môn lý luận chính trị chưa tích cực, hiệu quả; chưa có nhiều đổi mới, sáng tạo trong ứng dụng, sử dụng công nghệ thông tin, còn lúng túng trong xử lý các tình huống công nghệ thông tin, chưa làm chủ được công nghệ thông tin. Vẫn còn tình trạng e ngại thay đổi phương pháp giảng dạy trong thời kỳ công nghệ số. Một số giảng viên chưa chủ động nắm công nghệ, vẫn quen phương pháp dạy đọc – chép. Việc thiết kế bài giảng, tải video, thiết kế các câu hỏi tương tác đòi hỏi nhiều thời gian và nắm kỹ năng công nghệ số, trong khi đó một số giảng viên chưa chủ động tự trang bị máy móc, kiến thức để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “Đổi mới căn bản, toàn diện có khâu chưa đồng bộ, còn lúng túng cả trong nhận thức và hành động. Giáo dục đại học đổi mới chậm, liên kết đào tạo – nghiên cứu – thị trường lao động chưa chặt chẽ. Phương pháp dạy học ở nhiều nơi chưa khuyến khích sáng tạo và năng lực tự học. Cơ sở vật chất, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế còn hạn chế, bất cập”3.

Nguyên nhân của hạn chế trên là do: (1) Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu ở trường đại học chưa sâu sắc, toàn diện trong quán triệt những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. (2) Công tác kiểm tra, đánh giá việc giảng dạy các môn lý luận chính trị của lãnh đạo, chỉ huy khoa, cơ quan, chức năng liên quan có thời điểm chưa thường xuyên. (3) Một số giảng viên chưa tích cực, chủ động ứng dụng, sử dụng công nghệ số vào giảng dạy các môn lý luận chính trị. (4) Cơ sở vật chất, điều kiện bảo đảm cho việc giảng dạy các môn lý luận chính trị của giảng viên chưa đồng bộ, thống nhất, hiện đại.

3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy các môn lý luận chính trị hiện nay

Nghị quyết số 71-NQ/TW đã chỉ rõ: “Giáo dục bảo đảm hài hòa giữa tính toàn dân và tinh hoa, toàn diện và chuyên sâu, dân tộc và toàn cầu. Phát triển giáo dục trên nền tảng văn hóa, giá trị truyền thống dân tộc, đồng thời, tiếp thu tinh hoa nhân loại, chuẩn mực quốc tế; giáo dục, đào tạo công dân Việt Nam trở thành công dân toàn cầu”4. Các môn lý luận chính trị giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, lý tưởng, đạo đức và bản lĩnh chính trị của sinh viên Việt Nam. Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thế hệ công dân trí tuệ, bản lĩnh, có đạo đức, có trách nhiệm, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Một là, đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy các môn lý luận chính trị. Do đó, cần xây dựng một hệ sinh thái học liệu số các môn lý luận chính trị được kiểm duyệt, dùng chung trên toàn quốc. Trong bối cảnh sáp nhập, hướng tới một nền giáo dục tinh gọn, chất lượng, hiệu quả, việc xây dựng hệ sinh thái chung bên cạnh bộ giáo trình chung rất quan trọng, tạo sự thuận lợi, chủ động cho giảng viên trong việc trao đổi học thuật giữa đội ngũ giảng viên, giảng viên với sinh viên.

Có lộ trình, kế hoạch sát hợp với đặc điểm, tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ của các trường; hành động mạnh mẽ, tích cực trong xây dựng các dữ liệu tích hợp các môn lý luận chính trị để thuận lợi cho giảng viên, sinh viên tra cứu thông tin, bài giảng có liên quan đến nội dung cần nghiên cứu, tìm hiểu; các nội dung cua môn lý luận chính trị cần được tích hợp, chuyển đổi số một cách đồng bộ, thống nhất, không cần phải mật khẩu, tài khoản để mọi người đều có thể truy cập, sử dụng được. Có như vậy, mới nâng cao được chất lượng giảng dạy các môn lý luận chính trị của giảng viên đại học nói chung và sinh viên nói riêng.

Cần có những cơ chế, đãi ngộ đối với giảng viên lý luận chính trị tham gia sáng tạo số. Việc thiết kế bài giảng, video, các chương trình trên không gian số đòi hỏi nhiều thời gian, kinh phí và trí tuệ. Do đó, cần có những tiêu chí rõ ràng trong việc đánh giá khen thưởng giảng viên cuối năm. Các cấp liên quan cần có những quy định khuyến khích cụ thể. Cần đầu tư cơ sở hạ tầng bảo đảm môi trường dạy – học số ổn định, an toàn, bảo mật. Trang thiết bị các phòng học đầy đủ thiết bị máy tính cấu hình mạnh, loa, micro, wifi. Bên cạnh đó, cần có cơ chế hỗ trợ sinh viên hoàn cảnh khó khăn về thiết bị học, các gói data, góc học tập mở tại thư viện, ký túc xá phục vụ khai thác dữ liệu số.

Hai là, đối với giảng viên lý luận chính trị.

Trong thời đại số, giảng viên lý luận chính trị cần ý thức việc không chỉ nâng cao trình độ chuyên môn mà còn nâng cao hiểu biết về công nghệ, ngoại ngữ, học hỏi các phương pháp sư phạm hiện đại. Chủ động học thiết kế bài giảng điện tử hấp dẫn, có cấu trúc lôgic, đa phương tiện. Thành thạo việc quản trị lớp học trực tuyến như Google Classroom, Teams, Zoom … Xây dựng cộng đồng giảng viên thời đại số, chia sẻ kinh nghiệm và kho học liệu mở. Tích cực tham gia, học hỏi từ các Hội thảo về chuyên môn cũng như các Hội thảo về kỷ nguyên số.

Cần có tư duy mở, tích cực sử dụng các phương pháp giảng dạy mới. Kết hợp giữa giảng trực tiếp và trực tuyến, lớp học ngoài phòng học với các buổi học trải nghiệm thực tế. Đưa các trò chơi, vận dụng kiến thức lý luận chính trị vào tình huống thực tế. Sử dụng AI hỗ trợ các câu hỏi, thiết kế chương trình thảo luận, tránh sự trùng lắp, tạo sự hứng khởi cho sinh viên. Giảng viên cần học tập để có những kỹ năng sàng lọc thông tin, sử dụng công nghệ đúng.

Tích cực đổi mới hình thức đánh giá, kiểm tra sinh viên trong môi trường số. Việc học không chỉ dừng ở các khái niệm cần nâng cao nâng lực lập luận qua việc  phân tích một vấn đề, có kỹ năng phản biện nhanh qua các câu trắc nghiệm, hỏi đáp ngắn, cần có tư duy phản biện trước các luận điệu, có kỹ năng tổng hợp, vận dụng vào thực tiễn. Giảng viên lý luận chính trị là những chiến sĩ tiên phong trên không gian mạng trong việc định hướng chính trị – tư tưởng. Tuân thủ Luật An ninh mạng, tránh những lời cực đoan, lan truyền sai nguồn. Tích cực lan toả những thông tin tích cực, chính thống. Giảng viên phải là người văn minh trên nền tảng số.

Nghị quyết số 71-NQ/TW chỉ rõ: “Rà soát, hoàn thiện tiêu chuẩn, quy chuẩn, bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu đội ngũ giáo viên; bố trí đủ số lượng biên chế giáo viên, nhân viên theo tiêu chuẩn quy định; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục”5.

Ba là, đối với sinh viên.

Thời kỳ công nghệ số mở ra cho sinh viên nhiều cơ hội tiếp cận các nguồn tin, tuy nhiên tiềm ẩn nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng. Vì vậy, sinh viên cần được bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, năng lực nhận diện và phản biện thông tin.

Tích cực, chủ động tự học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, phương pháp, kỹ năng về mọi mặt, đáp ứng một cách tốt nhất yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Mỗi sinh viên không ngừng nỗ lực cố gắng về mọi mặt, không ngại khó, ngại khổ, chịu khó học tập, nghiên cứu, nhất là tiếp cận công nghệ thông tin để phục vụ tốt nhất nhiệm vụ học tập, rèn luyện. Tích cực, chủ động học hỏi, nghiên cứu, tìm hiểu từ nhiều nguồn, kênh thông tin khác nhau để đáp ứng với tình hình, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, đấu tranh tư tưởng lý luận, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ mỗi học sinh, sinh viên cần: “rèn luyện kỷ luật tự học; nuôi dưỡng đam mê khám phá. Nâng cao năng lực, làm chủ công nghệ số và trí tuệ nhân tạo một cách thông minh, an toàn và nhân văn. Biết yêu thương, sẻ chia, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng”6.

4. Kết luận

Giảng dạy các môn lý luận chính trị có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách của con người nói chung và giảng viên đại học nói riêng, tăng lên niềm tin về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong Nhân dân; đồng thời, qua giảng dạy các môn lý luận chính trị góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong thời kỳ mới.

Các môn lý luận chính trị hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và bản lĩnh chính trị cho sinh viên. Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, giáo dục Việt Nam đứng trước những cơ hội và thách thức mới, trong đó có cả việc giảng dạy các môn lý luận chính trị. Chính vì vậy, các cấp, các ngành của các trường đại học cần nhìn thẳng vào sự thật, tích cực, chủ động nắm bắt cơ hội, hạn chế, khắc phục những khuyết điểm, khó khăn ở ngành mình, trường mình để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và khả năng ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy các môn lý luận chính trị nói riêng, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước; hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, tạo ra bước đi vững chắc cho đất nước phát triển bền vững và hùng cường.

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 143.
2, 4, 5. Bộ Chính trị  (2025). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.
3, 6, 7. Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm 80 năm truyền thống ngành giáo dục và khai giảng năm học mới 2025-2026. https://baochinhphu.vn, ngày 05/9/2025.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạnh công nghiệp lần thứ tư, Hà Nội.
3. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số ngành Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến 2030.
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025). Công văn số 5835/BGDĐT-KHCNTT ngày 23/9/2025 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, thống kê giáo dục năm học 2025 – 2026.
5. Thủ tướng Chính phủ (2020). Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 về việc phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
6. Thủ tướng Chính phủ (2022). Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 25/01/2022 phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022 – 2025, định hướng đến năm 2030”.