ThS. Lê Minh Trí
ThS. Tô Hải Anh
Trường Đại học FPT – Phân hiệu TP. Hồ Chí Minh
(Quanlynhanuoc.vn) – Bài viết phân tích quá trình nhận thức và phát triển quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua các kỳ Đại hội, Đảng từng bước khẳng định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Bài viết đánh giá thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân tại TP. Hồ Chí Minh, chỉ ra những thành tựu nổi bật, hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế tư nhân trong giai đoạn mới.
Từ khóa: Đảng Cộng sản Việt Nam; kinh tế tư nhân; kinh tế thị trường; động lực thúc đẩy tăng trưởng; TP. Hồ Chí Minh.
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, trong đó việc xác lập vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân là bước tiến quan trọng về lý luận và thực tiễn. Từ chỗ bị xem là thành phần kinh tế “phụ”, “tự phát”, đến nay, kinh tế tư nhân đã được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Quá trình nhận thức này thể hiện sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng được hình thành qua tổng kết thực tiễn, đặc biệt tại TP. Hồ Chí Minh – trung tâm năng động đi đầu trong phát triển khu vực tư nhân.
Thực tiễn tại đây cho thấy, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp lớn vào tăng trưởng, tạo việc làm, thu ngân sách, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, sự phát triển này vẫn gặp nhiều hạn chế, như: quy mô nhỏ, năng suất thấp, năng lực cạnh tranh yếu và còn rào cản thể chế. Trong bối cảnh Việt Nam hướng tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, việc phát huy vai trò của kinh tế tư nhân là yêu cầu chiến lược. Do đó, nghiên cứu quá trình nhận thức của Đảng và thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc, góp phần hoàn thiện chính sách phát triển bền vững khu vực kinh tế tư nhân.
2. Quá trình nhận thức về phát triển kinh tế tư nhân
Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân là một biểu hiện sinh động của sự đổi mới tư duy lý luận, gắn liền với thực tiễn phát triển của nền kinh tế đất nước qua các thời kỳ. Trong giai đoạn trước đổi mới, do chịu ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể, xem kinh tế tư nhân là thành phần mang tính “tư bản”, “phi xã hội chủ nghĩa”, cần được cải tạo hoặc thu hẹp dần. Cách nhìn đó xuất phát từ yêu cầu chính trị – xã hội của thời kỳ bao cấp, khi đất nước vừa ra khỏi chiến tranh, nền kinh tế còn yếu kém, việc xây dựng mô hình kinh tế XHCN được xem là con đường tất yếu. Tuy nhiên, mô hình kinh tế tập trung bao cấp bộc lộ nhiều hạn chế: sản xuất trì trệ, năng suất thấp, cơ chế phân phối cứng nhắc, không khuyến khích sáng tạo và động lực cá nhân. Trong bối cảnh đó, nhu cầu đổi mới tư duy, đặc biệt trong nhận thức về các thành phần kinh tế, trở thành yêu cầu cấp bách.
Đại hội VI của Đảng (năm 1986) là bước ngoặt mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong nhận thức về kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, khu vực kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế ngoài XHCN vẫn được xem là lĩnh vực cần được “cải tạo” theo những hình thức, lộ trình phù hợp, nhằm bảo đảm tiến trình chuyển đổi diễn ra đúng định hướng, tránh biểu hiện chủ quan, nóng vội, “cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”1.
Tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng tiếp tục nhấn mạnh nền kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”2; “mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”3 và “kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”4. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển không chỉ trong lĩnh vực sản xuất nhỏ mà cả trong công nghiệp, thương mại và dịch vụ nhằm khai thác tiềm năng, huy động nguồn vốn và sức lao động trong xã hội cho phát triển đất nước.
Đến Đại hội VIII (năm 1996), nhận thức về kinh tế tư nhân tiếp tục được hoàn thiện khi Đảng xác định: “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”5. Đây là sự phát triển vượt bậc trong tư duy kinh tế của Đảng, thể hiện sự nhìn nhận thực tế và tinh thần cởi mở hơn trong việc khuyến khích khu vực tư nhân đóng góp cho nền kinh tế quốc dân.
Đại hội IX (năm 2001) đánh dấu bước ngoặt lớn khi Đảng chính thức khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”6. Từ đây, kinh tế tư nhân không còn bị xem là thành phần “phụ trợ” hay “bổ sung” mà đã được đặt ngang hàng với các khu vực kinh tế khác, trở thành bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhận thức này tạo cơ sở cho việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách cụ thể, như: Luật Doanh nghiệp (năm 1999, 2005, 2014, 2020), Luật Đầu tư năm 2020 và các nghị quyết của Trung ương nhằm tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng cho khu vực tư nhân phát triển.
Tại Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XI (năm 2011), Đảng tiếp tục hoàn thiện lý luận, khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, mở rộng sản xuất, tạo việc làm và đóng góp ngân sách. Đặc biệt, Đại hội XII (năm 2016) đã nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”7.
Trên cơ sở đó, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (năm 2017) ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nghị quyết này được coi là bước phát triển cao nhất trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng về kinh tế tư nhân, khẳng định rõ ràng rằng phát triển khu vực này không chỉ là nhu cầu khách quan mà còn là định hướng chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Đảng yêu cầu tiếp tục hoàn thiện thể chế, xóa bỏ rào cản, bảo đảm quyền bình đẳng của các chủ thể kinh tế; đồng thời, xây dựng cơ chế khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Đến Đại hội XIII (năm 2021), nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân đạt đến mức toàn diện và sâu sắc hơn, khi khẳng định: “Phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân “thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân…”8. Quan điểm này thể hiện sự nhất quán, đồng thời phản ánh kết quả tổng kết thực tiễn gần 40 năm đổi mới, trong đó khu vực kinh tế tư nhân đã khẳng định vai trò to lớn trong đóng góp GDP, tạo việc làm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế.
Nhận thức đó cũng cho thấy, sự vận động biện chứng trong tư duy lý luận của Đảng – từ chỗ dè dặt, từng bước chuyển sang khẳng định và coi trọng, đến nay đã hoàn thiện thành quan điểm chiến lược mang tầm định hướng phát triển quốc gia. Trên cơ sở đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia; là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”9.
Như vậy, quá trình nhận thức của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân là quá trình vận động từ nhận thức mang tính phòng thủ sang chủ động; từ “thừa nhận” sang “khẳng định và khuyến khích”; từ quan điểm thử nghiệm đến quan điểm chiến lược. Đây là kết quả của sự kết hợp giữa đổi mới tư duy lý luận với tổng kết thực tiễn phong phú, đặc biệt từ các địa phương năng động, như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng… Việc hoàn thiện nhận thức của Đảng về kinh tế tư nhân không chỉ góp phần củng cố lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN mà còn tạo nền tảng cho việc xây dựng thể chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân theo hướng bền vững, hiệu quả và hội nhập quốc tế, phù hợp với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
3. Thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở TP. Hồ Chí Minh hiện nay
TP. Hồ Chí Minh là địa bàn có vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế tư nhân, thể hiện rõ nhất tinh thần đổi mới tư duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua gần bốn thập niên đổi mới, kinh tế tư nhân tại Thành phố không chỉ khẳng định vị thế quan trọng trong cơ cấu kinh tế mà còn trở thành một trong những động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Chính quyền Thành phố triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ đổi mới công nghệ, chương trình kích cầu đầu tư, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, đào tạo nguồn nhân lực quản trị doanh nghiệp. Các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, như: Saigon Innovation Hub (SIHUB), Trung tâm Ươm tạo Doanh nghiệp Công nghệ (SHTP-IC), Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp (BSSC)… đã trở thành nơi ươm mầm cho hàng trăm doanh nghiệp trẻ, góp phần hình thành hệ sinh thái kinh tế tư nhân năng động, sáng tạo.
Khu vực kinh tế tư nhân của TP. Hồ Chí Minh phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến năm 2025, trên địa bàn Thành phố có “hơn 280.000 doanh nghiệp tư nhân, đóng góp khoảng 70% GRDP và gần 55% tổng thu ngân sách. Bình Dương với hơn 65.000 doanh nghiệp, là địa phương dẫn đầu cả nước về mức độ công nghiệp hóa-đô thị hóa, với gần 80% GRDP đến từ khu vực tư nhân”10. Những con số đó phản ánh vai trò to lớn của khu vực tư nhân trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành nghề theo hướng hiện đại, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực xã hội. Các lĩnh vực có sự tham gia nổi bật của khu vực tư nhân gồm: thương mại, dịch vụ, bất động sản, logistics, công nghệ thông tin, du lịch, chế biến – chế tạo và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn tại TP. Hồ Chí Minh đã vươn lên trở thành các tập đoàn có thương hiệu trong nước và khu vực, như: Vingroup, NovaGroup, Saigon Coop, Hòa Phát miền Nam, Kido, PNJ, Thaco, Vietjet Air; các công ty công nghệ trẻ, như: Momo, Tiki, Be Group… Những doanh nghiệp này không chỉ đóng góp lớn về giá trị sản xuất, xuất khẩu mà còn tạo ra hệ sinh thái đổi mới sáng tạo góp phần lan tỏa tinh thần khởi nghiệp trong cộng đồng doanh nhân trẻ. Bên cạnh đó, phong trào khởi nghiệp sáng tạo (startup) ở TP. Hồ Chí Minh phát triển sôi động với hàng trăm dự án khởi nghiệp trong các lĩnh vực công nghệ tài chính, thương mại điện tử, giáo dục, y tế, năng lượng sạch. Hiện nay, Thành phố là “thủ phủ khởi nghiệp” của cả nước, trở thành điểm đến hấp dẫn của các quỹ đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước.
Khu vực kinh tế tư nhân của Thành phố đã thể hiện vai trò tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt trong thương mại điện tử, tài chính số và dịch vụ đô thị thông minh. Nhiều doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, logistics hiện đại, sản xuất xanh, góp phần nâng cao năng suất lao động và giảm chi phí sản xuất. Sự năng động và nhạy bén của khu vực tư nhân giúp TP. Hồ Chí Minh trở thành địa phương đi đầu cả nước trong thúc đẩy kinh tế số. Thành phố đã có nhiều sáng kiến nhằm khuyến khích phát triển khu vực kinh tế tư nhân, như: cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật, thực tiễn phát triển kinh tế tư nhân ở TP. Hồ Chí Minh vẫn đối mặt với nhiều hạn chế và thách thức.
Thứ nhất, tình trạng quy mô nhỏ và siêu nhỏ chiếm đa số, khiến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh còn yếu. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ truyền thống, ít đầu tư vào sản xuất công nghiệp công nghệ cao, dẫn đến năng suất lao động còn thấp.
Thứ hai, khả năng liên kết và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, đặc biệt là mối liên kết giữa doanh nghiệp tư nhân với khu vực FDI và doanh nghiệp nhà nước chưa chặt chẽ, làm giảm hiệu quả lan tỏa công nghệ và kinh nghiệm quản trị. Ngoài ra, tiếp cận vốn, đất đai và công nghệ vẫn là rào cản lớn. Nhiều doanh nghiệp nhỏ khó vay vốn ngân hàng do thiếu tài sản thế chấp hoặc hồ sơ tín dụng yếu; trong khi chi phí thuê đất, giá nguyên liệu đầu vào, chi phí logistic cao làm giảm sức cạnh tranh.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực và năng lực quản trị doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Đa số doanh nghiệp tư nhân còn thiếu chiến lược phát triển dài hạn, chưa chú trọng xây dựng thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, chưa đầu tư đúng mức cho nghiên cứu – phát triển (R&D). Tình trạng thiếu minh bạch trong quản trị, vi phạm pháp luật về thuế, lao động, môi trường vẫn tồn tại ở một bộ phận doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hình ảnh của khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài ra, thủ tục hành chính dù đã cải thiện nhưng vẫn còn phức tạp; môi trường kinh doanh còn tiềm ẩn rủi ro do sự thay đổi chính sách, quy định pháp lý chưa đồng bộ, gây tâm lý e dè cho doanh nghiệp khi mở rộng đầu tư.
Trong thời gian tới, để khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng và phát triển bền vững, Thành phố cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân là yêu cầu tiên quyết. Trong đó, cần tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trịvề phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo đó, chính quyền Thành phố phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ những rào cản về thể chế, thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh gây bất lợi cho doanh nghiệp tư nhân. Cần rà soát, sửa đổi các quy định liên quan đến đầu tư, đất đai, thuế, tín dụng, nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định, minh bạch, giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.
Hai là, hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp tư nhân. Thành phố cần đẩy mạnh chương trình chuyển đổi số, hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ mới trong quản trị, sản xuất và marketing. Các quỹ đổi mới sáng tạo, trung tâm ươm tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp cần được mở rộng, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu – phát triển (R&D), đổi mới sản phẩm, dịch vụ và mô hình kinh doanh. Bên cạnh đó, chính quyền Thành phố nên phát triển các cụm liên kết ngành, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME Hub), tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Ba là, mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn và đất đai cho khu vực tư nhân. Thành phố cần phối hợp với các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại để xây dựng cơ chế cho vay linh hoạt, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp thông qua quỹ bảo lãnh tín dụng, quỹ phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, việc quy hoạch và phát triển các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế sáng tạo phải bảo đảm có quỹ đất hợp lý, giá thuê phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tư nhân mở rộng đầu tư sản xuất.
Bốn là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và năng lực quản trị doanh nghiệp. Thành phố cần gắn kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo, nâng cao kỹ năng nghề, năng lực số và kỹ năng quản lý cho người lao động. Việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân có đạo đức, bản lĩnh, tri thức quản trị hiện đại là nhiệm vụ trọng tâm để nâng cao năng lực cạnh tranh cho khu vực tư nhân.
Năm là, tăng cường vai trò của Nhà nước trong định hướng và hỗ trợ phát triển bền vững khu vực tư nhân. Chính quyền Thành phố phải là “chính quyền kiến tạo và phục vụ”, đồng hành cùng doanh nghiệp, kịp thời tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Cùng với đó, cần nâng cao ý thức xã hội, trách nhiệm cộng đồng và văn hóa doanh nghiệp trong khu vực tư nhân, hướng tới phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và công bằng xã hội.
4. Kết luận
Quá trình nhận thức của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân ngày càng toàn diện, sâu sắc và phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ xem kinh tế tư nhân là thành phần “phụ trợ”, đến nay Đảng đã khẳng định đây là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh cho thấy, sự phát triển năng động của khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng GRDP, tạo việc làm và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, khắc phục những rào cản thể chế, để khu vực kinh tế tư nhân thực sự phát huy hết tiềm năng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa XHCN.
Chú thích:
1, 2, 3, 4, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X). Phần I. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 333, 374, 437 – 438, 502, 622 – 623.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X). Phần II. H. NXB. Chính trị quốc gia, tr. 149.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 107 – 108.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. H. NXB Chính trị Quốc gia sự thật, tr. 240.
9. Bộ Chính trị (2025). Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
10. Phát huy vai trò kinh tế tư nhân tại TP. Hồ Chí Minh. https://nhandan.vn/phat-huy-vai-tro-kinh-te-tu-nhan-tai-thanh-pho-ho-chi-minh-post880630.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh (2025). Các văn kiện trình Đại hội đại biểu Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030. (ngày 13, 14, 15/10/2025).
2. Quốc hội (2023). Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24/6/2023 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh.
3. Một số vấn đề về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 98/2023/QH15. https://www.quanlynhanuoc.vn/2023/10/26/mot-so-van-de-ve-thi-diem-co-che-chinh-sach-dac-thu-phat-trien-thanh-pho-ho-chi-minh-theo-nghi-quyet-so-98-2023-qh15/



