Vũ Đức Văn
NCS Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đặt ra ngày càng cao và toàn diện hơn. Nguồn nhân lực y tế, với vai trò là lực lượng nòng cốt trong hệ thống chăm sóc sức khỏe, trở thành yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững của ngành Y tế. Phát triển nguồn nhân lực y tế không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh mà còn góp phần nâng cao chất lượng dân số, bảo đảm an sinh xã hội, thể hiện rõ trách nhiệm của ngành Y tế trong kỷ nguyên mới đầy cơ hội và thách thức. Bài viết làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực y tế trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Nguồn nhân lực y tế; ngành Y tế; chăm sóc sức khỏe nhân dân; kỷ nguyên mới.
1. Đặt vấn đề
Trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe Nhân dân luôn là nhiệm vụ hàng đầu. Đại hội XIII của Đảng khẳng định, con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi mới, trong đó phát triển nguồn nhân lực y tế giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ y tế đã tăng về số lượng và chất lượng, song phân bố nhân lực chưa đồng đều, chất lượng y tế cơ sở còn nhiều hạn chế, một bộ phận cán bộ có biểu hiện suy thoái về y đức, chưa đáp ứng yêu cầu mới, làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và niềm tin của Nhân dân. Trong bối cảnh đất nước hội nhập và khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực y tế trở thành nhiệm vụ tất yếu, cấp bách.
2. Vai trò của nguồn nhân lực y tế trong chăm sóc sức khỏe nhân dân
Vai trò của nguồn nhân lực y tế trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có ý nghĩa đặc biệt to lớn, bởi đây là lực lượng trực tiếp quyết định chất lượng dịch vụ y tế và hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Theo quan điểm của Đảng, nhân lực y tế là một “mắt xích” then chốt, giữ vị trí trung tâm trong việc nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, phòng bệnh, phục hồi chức năng cũng như nâng cao sức khỏe toàn dân. “Nguồn nhân lực y tế là tổng thể những người có khả năng lao động với thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp trong lĩnh vực y tế, đang và sẽ tham gia vào các hoạt động nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe của Nhân dân, cộng đồng”1. Điều này cho thấy, nguồn nhân lực y tế không chỉ là những cá nhân riêng lẻ mà là cả một hệ thống, một lực lượng mang tính quyết định đến sự phát triển bền vững của nền y tế quốc gia.
Đặc thù của ngành Y đòi hỏi đội ngũ cán bộ y tế phải hội tụ đủ cả ba yếu tố: trình độ chuyên môn giỏi, kỹ năng nghề nghiệp vững vàng và y đức trong sáng. “Về chuyên môn, cần thường xuyên học tập nghiên cứu để luôn luôn tiến bộ”2. Về y đức, phải “thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt. Cần phải tận tâm, tận lực phụng sự Nhân dân”3; “Lương y phải như từ mẫu”4. Hình ảnh người cán bộ y tế vừa là “thầy thuốc” cứu chữa bệnh nhân, vừa là “chiến sĩ” trên mặt trận thầm lặng chống dịch bệnh, phòng ngừa hiểm họa sức khỏe đã trở thành biểu tượng cao đẹp trong lòng Nhân dân. Những năm qua, trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, đặc biệt là đại dịch Covid-19, vai trò ấy càng được khẳng định mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Phát triển nguồn nhân lực y tế không chỉ là yêu cầu của nghề nghiệp mà còn là trách nhiệm chính trị – xã hội. Đây là sự cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về chăm lo, bảo vệ sức khỏe Nhân dân, thể hiện tính nhân văn và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền y tế nước ta. Đội ngũ cán bộ y tế được đào tạo bài bản, có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng tiếp cận và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ sẽ là nhân tố quyết định đến hiệu quả chăm sóc sức khỏe, giảm thiểu bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ y tế; đồng thời, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong hợp tác y tế quốc tế.
Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, vai trò của nguồn nhân lực y tế càng được mở rộng, gắn với những yêu cầu mới về chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao trong chẩn đoán, điều trị, quản lý hồ sơ bệnh án cũng như đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng đa dạng của Nhân dân. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học – công nghệ y sinh, trí tuệ nhân tạo (AI), kỹ thuật số đã tạo nên cơ hội và cũng là thách thức đối với ngành Y tế. Nếu không có đội ngũ nhân lực y tế được đào tạo để làm chủ công nghệ hiện đại thì khó có thể tận dụng hiệu quả những thành tựu đó để phục vụ con người.
Bên cạnh đó, nhân lực y tế không chỉ gắn bó với chuyên môn nghề nghiệp mà còn mang sứ mệnh xã hội sâu sắc. Mỗi cán bộ y tế đều là cầu nối giữa đường lối, chính sách y tế của Đảng và Nhà nước với đời sống Nhân dân, là hiện thân của sự quan tâm, chăm lo sức khỏe cộng đồng. Do đó, sự lớn mạnh của đội ngũ y tế vừa khẳng định tính ưu việt của nền y tế nhân dân, vừa góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Từ những phân tích trên có thể thấy, phát triển nguồn nhân lực y tế phải được đặt ở vị trí trung tâm của chiến lược chăm sóc sức khỏe toàn dân. Đây không chỉ là yêu cầu trước mắt để đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao mà còn là định hướng lâu dài, chiến lược cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguồn nhân lực y tế chính là nền tảng, là động lực và cũng là “chìa khóa” để hiện thực hóa khát vọng xây dựng một nền y tế Việt Nam hiện đại, nhân văn và phát triển bền vững.
3. Thực trạng phát triển nguồn nhân lực y tế ở Việt Nam
Trong suốt tiến trình đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực y tế, coi đây là nhiệm vụ then chốt để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân. Nhiều chủ trương, chính sách quan trọng đã được ban hành, góp phần mở rộng hệ thống đào tạo và cung ứng nhân lực cho ngành. Theo thống kê của Cục Khoa học và Công nghệ (Bộ Y tế), đến cuối năm 2023, cả nước có 40 cơ sở đào tạo trình độ đại học trong ngành Y tế, 68 cơ sở đào tạo hệ cao đẳng. Nhờ đó, hằng năm, hệ thống đào tạo đã cung cấp một lực lượng lớn cán bộ, nhân viên y tế, đáp ứng phần nào yêu cầu khám, chữa bệnh, phòng bệnh và phục hồi chức năng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ và nâng cao sức khỏe cộng đồng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực y tế còn nhiều hạn chế. Một số cơ sở đào tạo mới thành lập còn chạy theo lợi nhuận, chưa bảo đảm chuẩn mực về chất lượng, thiếu đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm dẫn đến kết quả đào tạo chưa đồng đều. Ở tuyến y tế cơ sở, đặc biệt là tại vùng sâu, vùng xa, chất lượng nhân lực vẫn còn thấp, “thiếu nhân lực y tế có trình độ và phân bổ bất hợp lý”5, chưa đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng cao và đa dạng của Nhân dân. Cơ chế, chính sách tuyển dụng và đãi ngộ chưa thật sự hấp dẫn, chưa tạo động lực để đội ngũ có trình độ cao gắn bó lâu dài với ngành, thậm chí dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” trong lĩnh vực y tế.
Đáng lo ngại hơn, “y đức của một bộ phận cán bộ y tế chưa tốt”6, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh người thầy thuốc, làm suy giảm niềm tin của Nhân dân đối với ngành Y tế. Những hạn chế này nếu không được khắc phục kịp thời sẽ trở thành lực cản lớn trong quá trình hiện đại hóa ngành Y tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, yêu cầu chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ cao vào y tế ngày càng cấp thiết.
Có thể thấy, thực trạng phát triển nguồn nhân lực y tế ở Việt Nam vừa phản ánh những nỗ lực đáng ghi nhận trong đào tạo, bổ sung lực lượng, vừa chỉ ra những điểm nghẽn cần tháo gỡ. Phát triển nguồn nhân lực y tế không chỉ là yêu cầu nội tại của ngành mà còn là nhiệm vụ chính trị quan trọng, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nền y tế Việt Nam hiện đại, công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập.
4. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực y tế trong tình hình mới
Trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và chuyển đổi số, nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực y tế trở thành yêu cầu cấp thiết để đáp ứng nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Điều này được Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân, khẳng định: “Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng, cân đối, đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ”7. Đứng trước yêu cầu đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực y tế. Việc đổi mới chương trình, tài liệu đào tạo theo hướng xây dựng chuẩn năng lực, chuẩn đầu ra, chuẩn chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn là hết sức cần thiết. Đồng thời, cần thường xuyên cập nhật, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, khuyến khích hợp tác, liên kết đào tạo với các trường đại học danh tiếng trong khu vực và thế giới. Đặc biệt, phương pháp giảng dạy phải lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của sinh viên.
Trong đào tạo y khoa, dạy – học lâm sàng đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Đây không chỉ là phương pháp “cầm tay chỉ việc” giúp sinh viên rèn luyện thái độ, kỹ năng nghề nghiệp mà còn gắn liền với môi trường đặc thù là bệnh viện và đối tượng đặc thù là người bệnh. Tuy nhiên, thực tế số lượng sinh viên tăng nhanh, trong khi số bệnh viện thực hành, giường bệnh không tăng tương ứng đã ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng đào tạo.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng đào tạo, các cơ sở cần chú trọng nâng cao trình độ giảng viên, cán bộ quản lý; tăng cường cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài ở những lĩnh vực Việt Nam còn hạn chế; mời chuyên gia, giảng viên quốc tế tham gia giảng dạy và nghiên cứu. Cùng với đó, phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phòng thực hành, trung tâm mô phỏng, phòng thí nghiệm hiện đại nhằm nâng cao kỹ năng cho sinh viên. Cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản trị nhà trường, phát triển thư viện điện tử và nguồn học liệu mở, góp phần nâng chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế.
Hai là, thường xuyên cập nhật kiến thức y khoa mới nhất; đẩy mạnh bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế.
Các cơ sở đào tạo, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở y tế và cán bộ y tế phải thường xuyên thực hiện việc cập nhật kiến thức y khoa liên tục cho người hành nghề khám, chữa bệnh để không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. Đồng thời, Bộ Y tế và chính quyền các cấp phải tạo điều kiện thuận lợi trong thủ tục gia hạn Giấy phép hành nghề theo quy định của pháp luật cho đội ngũ cán bộ y tế. Tích cực xây dựng cơ chế hỗ trợ cán bộ y tế vùng khó khăn tham gia cập nhật kiến thức y khoa liên tục; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn ở địa phương để mọi cán bộ y tế đều có thể tham gia học tập. Tiếp tục triển khai các giải pháp của Bộ Y tế nhằm nâng cao năng lực cán bộ y tế ở vùng khó khăn, trong đó phải đặc biệt chú trọng công tác chỉ đạo tuyến, chuyển giao kỹ thuật, luân chuyển cán bộ tuyến trên hỗ trợ tuyến dưới… Tiếp tục thể chế hóa các loại hình đào tạo phát triển nghề nghiệp, đào tạo cập nhật kiến thức y khoa liên tục và các hình thức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn. Tổ chức biên soạn, xuất bản, cung cấp tài liệu chuyên môn và khuyến khích việc tự học tập, cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ của cán bộ y tế qua nhiều hình thức.
Ba là, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho toàn ngành Y tế.
Cơ chế, chính sách về phát nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành Y tế ở Việt Nam hiện nay vẫn còn có những bất cập, nhất là liên quan đến đào tạo, tuyển dụng, đãi ngộ… Do đó, để phát triển nguồn nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe của Nhân dân cần phải hoàn thiện thể chế và các quy định của pháp luật liên quan đến đào tạo chuyên sâu, đặc thù ngành nhằm đổi mới đào tạo nhân lực y tế, chuẩn hóa mô hình đào tạo phù hợp với khung trình độ Quốc gia và hội nhập quốc tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo theo quy định của pháp luật. Tiếp tục rà soát, sửa đổi và bổ sung cũng như ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý, đãi ngộ nhân lực y tế phù hợp với bối cảnh và tình hình mới; bảo đảm hài hòa giữa chính sách đào tạo, tuyển dụng và đãi ngộ cho nhân lực y tế. Song song với bổ sung, hoàn thiện về cơ chế, Đảng, Nhà nước và Bộ Y tế cần có chính sách khen thưởng động viên cho nhân lực y tế có nhiều cống hiến, có sáng tạo và ứng dụng thực tiễn trong công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cộng đồng…
Bốn là, nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của mỗi cán bộ, nhân viên y tế trong học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của mỗi cán bộ, nhân viên y tế trong học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp là một trong những giải pháp quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực y tế trong tình hình mới. Trong bối cảnh hệ thống y tế đang phải đối mặt với nhiều thách thức, như: sự bùng phát của dịch bệnh, yêu cầu đổi mới trong chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân, cùng với quá trình chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc mỗi cán bộ, nhân viên y tế chủ động tự học, tự rèn luyện và không ngừng hoàn thiện bản thân là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực toàn ngành.
Tinh thần trách nhiệm và ý thức tự giác cần được xem là phẩm chất cốt lõi trong đội ngũ cán bộ y tế. Người thầy thuốc không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải có cái tâm trong sáng, hết lòng vì người bệnh. Do đó, mỗi cán bộ, nhân viên y tế phải thường xuyên tự soi, tự sửa, nêu cao ý thức trách nhiệm trong công việc, nghiêm túc tuân thủ quy tắc nghề nghiệp, quy trình chuyên môn, lấy sự an toàn và sức khỏe của người bệnh làm trung tâm của mọi hành động.
Bên cạnh đó, việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, phù hợp với yêu cầu phát triển của khoa học – công nghệ hiện đại. Cán bộ y tế cần tích cực học tập, nghiên cứu, tham gia các khóa bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới; chủ động tiếp cận kỹ thuật tiên tiến, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo (AI) trong chẩn đoán, điều trị và quản lý y tế. Đồng thời, phải biết chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn trong tập thể, hình thành môi trường học tập suốt đời trong ngành Y.
Song song với chuyên môn, việc rèn luyện đạo đức nghề nghiệp cũng đóng vai trò then chốt. Cán bộ y tế phải giữ gìn phẩm chất trong sáng, thái độ tận tụy, nhân ái, tôn trọng và đồng cảm với người bệnh; tránh biểu hiện quan liêu, thiếu chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử. Các cơ sở y tế cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức nghề nghiệp, phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo;đồng thời, có cơ chế khuyến khích, biểu dương những tấm gương tiêu biểu.
Năm là, phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên ngành Y tế, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe Nhân dân, việc phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên ngành Y tế, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là yêu cầu về đạo đức, bản lĩnh chính trị mà còn là động lực trực tiếp góp phần xây dựng đội ngũ nhân lực y tế có phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới.
Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên thể hiện trước hết ở việc gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, tận tụy, hết lòng vì người bệnh, đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết. Cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong ngành Y tế phải thật sự là trung tâm đoàn kết, là tấm gương sáng về y đức, kỷ cương, liêm chính, công tâm, khách quan trong công tác; nói đi đôi với làm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Thực tế cho thấy, ở đâu người đứng đầu gương mẫu, trách nhiệm, tận tụy, ở đó tập thể đoàn kết, phong trào thi đua sôi nổi, chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao rõ rệt.
Phát huy trách nhiệm nêu gương còn là quá trình thường xuyên, liên tục, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên ngành Y tế cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nêu cao tinh thần “lương y như từ mẫu”, kiên định lập trường chính trị, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có thái độ ứng xử văn minh, chuẩn mực với người bệnh và đồng nghiệp. Đặc biệt, cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải là người tiên phong trong thực hiện các chủ trương, chính sách đổi mới về phát triển nguồn nhân lực y tế; chủ động đề xuất giải pháp, sáng kiến nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ y tế đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Để thực hiện tốt nội dung này, cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; gắn đánh giá cán bộ, đảng viên với kết quả thực hiện trách nhiệm nêu gương. Đồng thời, phát huy vai trò giám sát của tổ chức đảng, công đoàn, đoàn thanh niên trong việc phát hiện, biểu dương, nhân rộng những điển hình tiên tiến, kịp thời phê bình, xử lý các biểu hiện suy thoái, tiêu cực. Qua đó, xây dựng môi trường làm việc dân chủ, kỷ cương, nhân văn, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ, viên chức y tế không ngừng phấn đấu, cống hiến.
5. Kết luận
Phát triển nguồn nhân lực y tế trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn thuần là đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho hệ thống khám, chữa bệnh mà còn là nhiệm vụ chiến lược, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe Nhân dân. Đứng trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội và những biến động phức tạp của tình hình thế giới, ngành Y tế phải đồng bộ triển khai các giải pháp từ nâng cao chất lượng đào tạo, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường y đức cho đến phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đây là nền tảng quan trọng để ngành Y tế thực hiện thắng lợi sứ mệnh cao cả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó; đồng thời, là nhân tố quyết định góp phần bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới. Hơn bao giờ hết, đầu tư phát triển nguồn nhân lực y tế chính là đầu tư cho sức khỏe Nhân dân, cho tương lai và sự hùng cường của dân tộc.
Chú thích:
1. Bộ Y tế (2024). Quyết định số 869/QĐ-BYT ngày 08/4/2024 phê duyệt “Đề án phát triển nguồn nhân lực y tế giai đoạn 2023 – 2030, định hướng 2050”.
2, 3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 88, 154.
4. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 343.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I.H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 31, 31.
7. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 72-NQ/TW ngày 09/9/2025 về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân.



