Nguyễn Văn Trình, Trịnh Xuân Việt
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, chuyển đổi sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao thu nhập, thích ứng với những biến đổi kinh tế – xã hội và hướng tới phát triển bền vững. Quá trình này giúp đồng bào tiếp cận cơ hội mới, phát huy tiềm năng, lợi thế bản địa, bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống; đồng thời,tham gia tích cực vào chuỗi giá trị kinh tế toàn cầu. Bài viết tập trung đánh giá thực trạng chuyển đổi sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lào Cai, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi sinh kế hiệu quả và bền vững trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Chuyển đổi sinh kế; hội nhập kinh tế; dân tộc thiểu số; lợi thế bản địa; Lào Cai.
1. Đặt vấn đề
Lào Cai là tỉnh miền núi, vùng cao, có vị trí chiến lược ở khu vực Tây Bắc. Sau hợp nhất, tỉnh có 99 xã, phường, với dân số 1.788.785 người, trong đó có 1.029.896 người thuộc các dân tộc thiểu số, chiếm tỷ lệ 57,6% dân số toàn tỉnh, với trên 40 thành phần dân tộc thiểu số1. Thực tiễn cho thấy, sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số ở Lào Cai hiện nay chủ yếu vẫn dựa vào sản xuất nông nghiệp truyền thống mang tính tự cung, tự cấp. Các hoạt động như thêu dệt thổ cẩm, rèn nông cụ, làm hương, nấu rượu, chế biến thực phẩm truyền thống, … chủ yếu tồn tại ở quy mô hộ gia đình, chưa đủ năng lực phát triển thành các đơn vị kinh tế độc lập có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hiện nay, mô hình sinh kế của đồng bào cần được đổi mới theo hướng sản xuất hàng hóa, có khả năng liên kết chuỗi giá trị, tiếp cận thị trường và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ. Do đó, chuyển đổi sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lào Cai không chỉ là sự thay đổi phương thức sản xuất nhằm thích ứng với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, mà còn là định hướng phát triển bền vững, góp phần khai thác hiệu quả nguồn lực tại chỗ, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương, đồng thời củng cố ổn định chính trị, quốc phòng – an ninh trên địa bàn chiến lược của quốc gia.
2. Thực trạng chuyển đổi sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số
2.1. Một số kết quả đạt được
Thứ nhất, số lượng và quy mô các mô hình sinh kế theo hướng sản xuất hàng hóa ngày càng gia tăng. Thực hiện Nghị quyết số 10/NQ-TU ngày 26/8/2021 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai về Chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, các mô hình sản xuất hàng hóa có tổ chức trên địa bàn tỉnh Lào Cai được mở rộng và nâng cao hiệu quả rõ rệt. Trong đó, mô hình hợp tác xã từng bước khẳng định vai trò, khả năng thích ứng với cơ chế thị trường và gắn kết chặt chẽ hơn với chuỗi giá trị sản xuất. Tính đến tháng 6/2024, toàn tỉnh có 515 hợp tác xã (tăng 6% so với cùng kỳ năm 2023), doanh thu bình quân của hợp tác xã ước đạt 918 triệu đồng/năm (tăng 2,8% so với năm 2023); thu nhập bình quân của lao động trong hợp tác xã đạt 48 triệu đồng/năm (tăng 2,1% so với năm 2023)2. Sau hợp nhất, tổng số hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh là 804 hợp tác xã và 2801 tổ hợp tác với trên 12.000 thành viên3. Những kết quả này cho thấy, xu hướng chuyển đổi sinh kế theo hướng sản xuất hàng hóa ngày càng rõ nét, trong đó mô hình kinh tế tập thể trở thành “bệ đỡ” vững chắc cho các hộ sản xuất là người đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh tập trung, góp phần nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm. Chuyển đổi sinh kế đã góp phần hình thành các vùng chuyên canh quy mô lớn có giá trị kinh tế cao, như: cánh đồng một giống lúa ở huyện Văn Bàn; lúa Séng Cù chất lượng cao tại Mường Khương, Bát Xát; vùng ngô hàng hóa ở Si Ma Cai, Bắc Hà; vùng dứa, chuối ở Mường Khương; vùng quế tại Bảo Yên, Bắc Hà; vùng hoa ở Sa Pa và thành phố Lào Cai; vùng dược liệu và rau trái vụ tại Sa Pa, Bát Xát… Nhiều mô hình đã phát triển chuỗi liên kết từ sản xuất đến đến tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với sự tham gia của 45 doanh nghiệp, hợp tác xã, quy mô khoảng 18.000 ha, liên kết với hơn 17.000 hộ dân, giá trị các chuỗi liên kết năm 2024 đạt 1.560 tỷ đồng4.
Tính đến tháng 7/2025, toàn tỉnh hiện có 604 sản phẩm OCOP, thì có tới 297 sản phẩm (chiếm 49,1%) là của các mô hình kinh tế tập thể; đáng chú ý trong số 304 chủ thể tham gia sản xuất, kinh doanh sản phẩm OCOP, có 105 chủ thể đại diện là người dân tộc thiểu số5. Nhiều sản phẩm đã có mặt tại các hệ thống siêu thị lớn trên toàn quốc, như chè Shan tuyết Suối Giàng, gạo Séng Cù Mường Lò, miến đao Giới Phiên, ruốc cá hồi Sa Pa, trà túi lọc Atiso Sa Pa… Việc hình thành chuỗi sản xuất – chế biến – tiêu thụ không chỉ gia tăng giá trị sản phẩm mà còn giúp đồng bào dân tộc thiểu số mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm.
Thứ ba, cơ cấu cây trồng, vật nuôi và ngành nghề chuyển dịch theo hướng hiện đại. Trên cơ sở khai thác lợi thế sinh thái, văn hóa và bản địa, cùng với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã chuyển dần từ sản xuất tự cấp, tự túc sang phát triển các ngành hàng hóa có giá trị kinh tế cao, như trồng dược liệu, cây đặc sản, nuôi cá nước lạnh, chế biến thực phẩm… Tính đến hết năm 2024, Lào Cai có diện tích chè đạt gần 8.600 ha, sản lượng trên 42.000 tấn, giá trị hơn 300 tỷ đồng; diện tích quế đạt trên 59.000 ha, giá trị ngành hàng quế đạt 900 tỷ đồng; diện tích dược liệu gần 4.300 ha, sản lượng 18.161 tấn, giá trị 390 tỷ đồng; diện tích chuối đạt 3.174 ha, giá trị mang lại 184 tỷ đồng6.
Diện tích mặt nước nuôi thủy sản khoảng 2.350 ha, sản lượng thủy sản năm 2024 ước thực hiện 12.700 tấn, trong đó: Cá nước ấm 11.500 tấn, cá nước lạnh 1.200 tấn, mang lại giá trị kinh tế cao; đặc biệt, du lịch cộng đồng đang trở thành điểm sáng nổi bật của tỉnh Lào Cai, năm 2024, tổng lượng khách đến Lào Cai đạt 8 triệu lượt khách, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2023 (7.261.581 lượt), tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 26.700 tỷ đồng, bằng 98% so với kế hoạch năm (27.200 tỷ đồng), tăng 20% so với cùng kỳ năm 2023 (22.244 tỷ đồng)7. Những chuyển biến này không chỉ mở rộng cơ hội sinh kế phi nông nghiệp, mà còn góp phần nâng cao tỷ trọng khu vực dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn vùng cao, tạo điều kiện cho phát triển đa dạng nguồn thu nhập và giảm sự phụ thuộc vào canh tác truyền thống.
Thứ tư, nâng cao tay nghề, tạo việc làm, giảm nghèo và cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Giai đoạn 2021 – 2024, tỉnh Lào Cai đã đào tạo nghề cho hơn 28.000 người dân tộc thiểu số; riêng năm 2024, giải quyết việc làm trong nước cho khoảng 16.517 người lao động là người dân tộc thiểu số, làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là 145 lao động, chiếm 58,3%8. Từ 2021 – 2025, Sở Dân tộc và Tôn giáo phối hợp với Sở Giáo dục và Đào tạo của tỉnh mở 312 lớp đào tạo, tập huấn cho 22.750 lượt người, những lao động sau đào tạo, tập huấn được tiếp cận với các mô hình sản xuất mới như chế biến dược liệu, chăn nuôi quy mô hộ nhóm, thủ công mỹ nghệ theo hướng hàng hóa, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị hoặc tham gia các hợp tác xã dịch vụ nông – lâm – ngư nghiệp, du lịch; thu nhập bình quân vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt trên 33 triệu đồng/người/năm, tăng trên 2 lần so với đầu kỳ (đầu kỳ khoảng 14 triệu đồng/người/năm); tỷ lệ hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số trong giai đoạn 2021 – 2025, giảm bình quân 6,7%/năm9. Việc nâng cao kỹ năng nghề đã góp phần tạo việc làm tại chỗ, giảm nghèo và củng cố tính bền vững của các mô hình sinh kế mới tại địa phương.
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
Một là, tính bền vững của một số mô hình sinh kế chưa cao. Không ít hợp tác xã, tổ hợp tác được thành lập trong giai đoạn đầu thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển sinh kế nhưng thiếu chiến lược dài hạn, năng lực điều hành hạn chế, nên chỉ hoạt động theo mùa vụ hoặc phải giải thể. Tính đến hết năm 2024, tổng số hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn toàn tỉnh là 323 hợp tác xã, (trong đó có 216 hợp tác xã đang hoạt động; 103 hợp tác xã ngừng hoạt động; tạm ngừng hoạt động 4 hợp tác xã)10. Điều này ảnh hưởng đến việc hình thành chuỗi giá trị sản phẩm và thu hút đầu tư.
Hai là, liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất và tiêu thụ còn yếu, dẫn đến giá trị gia tăng thấp.. Nhiều mô hình sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, thiếu liên kết với doanh nghiệp và hệ thống phân phối hiện đại. Tính đến tháng 8/2024 tổng diện tích chè toàn tỉnh đạt 8.295 ha, trong đó diện tích chè kinh doanh là 5.767 ha, 8 hợp tác xã nông nghiệp liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chè tươi cho nông dân, quy mô liên kết 539 ha (chiếm 0,9% tổng diện tích chè toàn tỉnh). Đối với cây chuối, có 2 doanh nghiệp, 1 hợp tác xã liên kết tiêu thụ quả chuối cho bà con (sản lượng khoảng 30%), số còn lại được tiêu thụ qua các tư thương, thị trường thiếu ổn định. Đối với cây quế, có 4 hợp tác xã thực hiện chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm quế, diện tích liên kết 7.850 ha, chiếm tỷ lệ nhỏ (hơn 0,1%) trên tổng diện tích quế toàn tỉnh (khoảng hơn 58.000 ha)11. Điều đó cho thấy, mức độ liên kết trong sản xuất còn rất hạn chế.
Ba là, thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao so với mặt bằng thu nhập chung của toàn tỉnh. Năm 2024, GRDP bình quân đầu người của tỉnh Lào Cai đạt 97,48 triệu đồng, trong khi đó thu nhập bình quân vùng đồng bào dân tộc thiểu số ước đạt 33 triệu đồng/người/năm12, bằng khoảng 33,84% mức bình quân của toàn tỉnh, cho thấy nhiều mô hình sinh kế chưa thực sự phát huy hiệu quả, hệ quả là tỷ lệ hộ nghèo là người dân tộc thiểu số vẫn duy trì ở mức cao (theo kết quả rà soát hộ nghèo năm 2024, toàn tỉnh có 32.986 hộ nghèo, trong đó có 30.767 hộ nghèo dân tộc thiểu số, chiếm 93,27% số hộ nghèo toàn tỉnh)13. Điều này cho thấy, hiệu quả sinh kế chưa thật sự bền vững và cần được tái cấu trúc theo hướng hiện đại, liên kết chặt chẽ và nâng cao giá trị.
2.3. Nguyên nhân chủ yếu
(1) Vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số tại Lào Cai sinh sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, địa hình hiểm trở, giao thông cách trở, khiến việc tiếp cận nguồn lực phát triển, cơ sở hạ tầng và thị trường gặp nhiều trở ngại. Chi phí vận chuyển cao và thời gian lưu thông dài làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm địa phương.
(2) Nguồn lực tài chính cho đồng bào dân tộc thiểu số phục vụ chuyển đổi sinh kế còn hạn hẹp. Mặc dù Nhà nước đã triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, song tiến độ giải ngân còn chậm. Đến hết tháng 9/2024, tiến độ giải ngân nguồn vốn Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 – 2025 (Chương trình mục tiêu quốc gia 1719) của tỉnh Lào Cai mới chỉ đạt 21% kế hoạch14 chưa đáp ứng yêu cầu vốn cho các dự án chuyển đổi sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số.
(3) Chất lượng nguồn nhân lực người dân tộc thiểu số còn thấp. Tính đến hết năm 2025, tỷ lệ lao động qua đào tạo của toàn tỉnh ước đạt 70%, trong đó tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 25,3%. Tỷ lệ lao động người dân tộc thiểu số qua đào tạo ước đạt 45%15. Mặc dù đã được đào tạo nghề, nhiều lao động dân tộc thiểu số vẫn gặp khó khăn trong việc áp dụng kiến thức vào thực tiễn sản xuất do rào cản ngôn ngữ, trình độ học vấn và kỹ năng thị trường còn hạn chế khiến nhiều lao động khó tiếp cận công nghệ mới và dễ quay lại sản xuất truyền thống sau một thời gian ngắn.
3. Một số giải pháp chủ yếu
Thứ nhất, tăng cường phát triển kinh tế tập thể và liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị.Đây là giải pháp trọng tâm nhằm thúc đẩy chuyển đổi sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lào Cai. Cần chú trọng phát triển kinh tế tập thể, nhất là các hợp tác xã và tổ hợp tác, gắn với xây dựng chuỗi giá trị sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm. Mặc dù số lượng hợp tác xã ở Lào Cai tăng nhanh, song hiệu quả hoạt động còn hạn chế do năng lực quản trị và định hướng chiến lược chưa cao. Vì vậy, cần tăng cường hỗ trợ nâng cao năng lực điều hành, quản trị, tiếp cận thị trường cho các hợp tác xã; đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích doanh nghiệp liên kết đầu tư, tiêu thụ sản phẩm với các hợp tác xã và hộ đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó hình thành các chuỗi giá trị bền vững, nâng cao giá trị gia tăng và ổn định sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Hai là, quy hoạch và phát triển các vùng sản xuất chuyên canh gắn với tiềm năng bản địa.Chuyển đổi sinh kế hiệu quả phải dựa trên khai thác hợp lý tiềm năng sinh thái, khí hậu và văn hóa đặc thù từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Lào Cai đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên canh,như: chè, quế, dược liệu, chuối, cá nước lạnh…, song cần tiếp tục mở rộng, quy hoạch tập trung, hiện đại và gắn với thị trường. Đồng thời, cần đầu tư hoàn thiện hạ tầng thiết yếu, như đường nội đồng, thủy lợi, kho bảo quản, cơ sở chế biến sau thu hoạch để nâng cao hiệu quả sản xuất. Phát triển vùng chuyên canh gắn với sản phẩm đặc hữu sẽ giúp gia tăng giá trị, tạo thương hiệu vùng miền và chuyển dịch từ sản xuất nhỏ lẻ sang sản xuất hàng hóa quy mô lớn, bền vững.
Ba là, đa dạng hóa mô hình sinh kế theo hướng phi nông nghiệp, chú trọng phát triển du lịch cộng đồng và ngành nghề truyền thống. Đây là giải pháp quan trọng nhằm giảm sự phụ thuộc của đồng bào dân tộc thiểu số vào nông nghiệp truyền thống và mở rộng cơ hội thu nhập. Trong đó, phát triển du lịch cộng đồng gắn với khai thác giá trị văn hóa bản địa, cảnh quan thiên nhiên và sản phẩm truyền thống là hướng đi giàu tiềm năng. Cùng với đó, cần hỗ trợ phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ, chế biến thực phẩm bản địa, dịch vụ du lịch và thương mại tại chỗ, phù hợp với điều kiện từng địa phương. Đa dạng hóa sinh kế không chỉ tạo thêm việc làm, tăng thu nhập mà còn góp phần bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc và phát huy vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế – xã hội tại chỗ.
Bốn là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số gắn với yêu cầu thị trường và mô hình sinh kế mới. Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả chuyển đổi sinh kế. Do đó, cần đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số theo hướng thực hành, phù hợp với trình độ nhận thức và điều kiện thực tế tại địa phương. Các chương trình đào tạo phải gắn với nhu cầu thực tiễn của thị trường, đồng thời tích hợp các kỹ năng mềm như quản lý sản xuất, tiếp cận thị trường, ứng dụng công nghệ số. Đặc biệt, cần ưu tiên đào tạo, tập huấn nghề nghiệp tại chỗ, gắn đào tạo với mô hình thực hành cụ thể để đảm bảo hiệu quả. Khi được nâng cao trình độ nghề nghiệp và kỹ năng sản xuất, đồng bào dân tộc thiểu số sẽ chủ động hơn trong việc thích ứng, phát triển mô hình sinh kế bền vững và tham gia tích cực vào quá trình phát triển kinh tế địa phương.
Năm là, tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng và bảo đảm nguồn lực tài chính cho chuyển đổi sinh kế. Cơ sở hạ tầng và nguồn lực tài chính là điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa các mô hình sinh kế bền vững ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực tế tại Lào Cai cho thấy, nhiều địa bàn vẫn gặp khó khăn về giao thông, điện, thông tin liên lạc, làm gia tăng chi phí sản xuất và hạn chế khả năng tiếp cận thị trường. Vì vậy, cần ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu tại các khu vực khó khăn, đồng thời đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 về phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Bên cạnh đó, cần xây dựng cơ chế tín dụng ưu đãi riêng biệt cho hộ dân tộc thiểu số nhằm giúp họ tiếp cận vốn phát triển sản xuất, ứng dụng công nghệ mới và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Bảo đảm nguồn lực đầu tư đầy đủ, kịp thời và hiệu quả sẽ tạo nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển đổi sinh kế toàn diện và bền vững.
4. Kết luận
Chuyển đổi sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lào Cai hiện nay không chỉ là yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống mà còn là động lực thúc đẩy phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Quá trình này cần được thực hiện trên cơ sở khai thác hiệu quả các tiềm năng, lợi thế đặc thù của địa phương, đồng thời khắc phục những hạn chế về hạ tầng, nguồn vốn và khả năng liên kết sản xuất. Để chuyển đổi sinh kế đạt hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là vai trò chủ thể tự lực, tự cường của chính đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lào Cai.
Chú thích:
1, 13. UBND tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 76/BC-SDTTG ngày 17/9/2025 về công tác dân tộc và tôn giáo 9 tháng đầu năm, nhiệm vụ trọng tâm các tháng cuối năm 2025; Đề xuất các nội dung chất vấn thành viên Chính phủ tại Kỳ họp, phục vụ chuẩn bị nội dung Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV.
2. Kinh tế hợp tác đang phát triển đúng hướng. https://baolaocai.vn/kinh-te-hop-tac-dang-phat-trien-dung-huong post387089.html, ngày 17/7/2024.
3. UBND tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 28/BC-UBND ngày 02/8/2025 về công tác chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân tỉnh, tình hình kinh tế – xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2025, phương hướng, nhiệm vụ công tác tháng 8 năm 2025.
4. Hiệu quả liên kết sản xuất nông nghiệp. https://baolaocai.vn/hieu-qua-lien-ket-san-xuat-nong-nghiep-post398507.html, ngày 09/3/2025.
5. Lào Cai: Thêm 62 sản phẩm mới được công nhận đạt OCOP năm 2025. https://baolaocai.vn/lao-cai-them-62-san-pham-moi-duoc-cong-nhan-dat-ocop-nam-2025-post649457.html, ngày 22/7/2025.
6. Chuyển đổi cây trồng – hướng đi chiến lược của Lào Cai. https://nongnghiepmoitruong.vn/chuyen-doi-cay-trong–huong-di-chien-luoc-cua-lao-cai-d758779.html, ngày 25/6/2025.
7, 10. UBND tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 02/BC-UBND ngày 06/01/2025 về tình hình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh tháng 12 và cả năm 2024; nhiệm vụ chủ yếu tháng 01 và quý I/2025 tỉnh Lào Cai.
8. Kiện toàn, nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về công tác dân tộc các cấp. https://baodantoc.vn/kien-toan-nang-cao-chat-luong-to-chuc-bo-may-quan-ly-nha-nuoc-ve-cong-tac-dan-toc-cac-cap-1735292429984.htm, ngày 27/12/2024.
9, 12. UBND tỉnh Lào Cai (2025). Báo cáo số 93/BC-SDTTG ngày 08/10/2025 về kết quả thực hiện chương trình phối hợp công tác giữa Sở Dân tộc và Tôn giáo với Sở Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2021 – 2025.
11. Phát triển kinh tế tập thể ở Lào Cai: Nhiều vấn đề đặt ra. https://lienminhhoptacxa.laocai.gov.vn/kinh-te-tap-the-tinh-lao-cai/phat-trien-kinh-te-tap-the-o-lao-cai-nhieu-van-de-dat-ra-bai-2-xay-dung-chuoi-gia-tri-vai-tro-cu-1283262, ngày 14/08/2024.
14. UBND tỉnh Lào Cai (2024). Báo cáo số 249/BC-BDT ngày 10/9/2024 về kết quả thực hiện công tác dân tộc 9 tháng đầu năm; phương hướng, nhiệm vụ 3 tháng cuối năm 2024.
15. Lào Cai: Phấn đấu năm 2030, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 75%. https://baolaocai.vn/lao-cai-phan-dau-nam-2030-ty-le-lao-dong-qua-dao-tao-dat-75-post878865.html, ngày 06/8/2025.



