Phát triển nhân lực trình độ cao cho Thủ đô Hà Nội theo Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị

ThS. Lê Thạc Diên
ThS. Nguyễn Trần Lực
Trường Đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong

(Quanlynhanuoc.vn) – Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược toàn cầu, nhân tài đã trở thành tài sản quyết định vị thế và tương lai phát triển của mỗi quốc gia, mỗi đô thị. Với vai trò là Thủ đô, trung tâm đầu não của cả nước, Hà Nội đang đứng trước một thời điểm mang tính bước ngoặt: bứt phá để trở thành một trung tâm tri thức hàng đầu khu vực hoặc đối mặt với nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua thu hút những bộ óc tinh hoa. Các chính sách hiện hành, dù đã có nhiều nỗ lực vẫn chưa đủ sức cạnh tranh và thiếu tính đột phá. Bài viết tập trung đề xuất một hệ thống giải pháp nhằm tháo gỡ các rào cản cốt lõi, hiện thực hóa mục tiêu chiến lược theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị, đưa Hà Nội trở thành điểm đến hấp dẫn và giữ chân nhân tài hàng đầu của cả nước và khu vực.

Từ khóa: Nghị quyết số 71-NQ/TW; nhân lực trình độ cao; đổi mới sáng tạo.

1. Đặt vấn đề

Nhân lực chất lượng cao là một tập hợp các cá nhân có phẩm chất, trình độ và năng lực vượt trội tuyệt đối so với mặt bằng chung, được tổ chức và quản lý nhằm đảm nhận vai trò chủ chốt, tạo ra giá trị chuyển đổi và hiệu quả tối ưu trong các lĩnh vực chiến lược của quốc gia. Vì vậy, nhân lực chất lượng cao cần thể hiện sự vượt trội, đồng thời, qua một tập hợp các thuộc tính căn bản, thống nhất hữu cơ về phẩm chất và năng lực:

Một là, tính vượt trội tuyệt đối: so với mức trung bình và vượt chuẩn các tiêu chí quy định. Sở hữu trình độ chuyên môn sâu và năng lực tiệm cận chuẩn quốc tế (có học vị tiến sĩ trở lên), có khả năng nghiên cứu chuyên sâu và thành thạo công nghệ hiện đại.

Hai là, phẩm chất và đạo đức mẫu mực: thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng và đạo đức nghề nghiệp mẫu mực, trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng và đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Ba là, vai trò chủ chốt và hiệu quả tối ưu: Khả năng đảm nhận vai trò chủ chốt, là lực lượng nòng cốt, dẫn dắt trong hoạt động chuyên môn. Tạo ra hiệu quả tối ưu hay giá trị chuyển đổi cao nhất, thể hiện khả năng tạo ra sự thay đổi tích cực, chuyển hóa mạnh mẽ trong nhận thức, tư duy và hành động thực tiễn của đối tượng phục vụ; có năng lực gắn lý luận với thực tiễn và tổng kết thực tiễn phong phú.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ nhân tài có năng lực dẫn dắt, là nền tảng cốt lõi trong chiến lược phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Đảng và Nhà nước luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Quan điểm này tiếp tục được cụ thể hóa một cách mạnh mẽ trong Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị, trong đó xác định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là khâu đột phá chiến lược để tạo ra động lực then chốt cho sự phát triển bứt phá của đất nước.

Trong bối cảnh mới, Thủ đô Hà Nội với vị thế là trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa và là nơi tập trung hệ thống giáo dục đại học lớn nhất cả nước với gần 100 trường đại học, học viện và viện nghiên cứu1, đóng vai trò tiên phong trong việc hiện thực hóa chiến lược quốc gia này. Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của Thủ đô phục vụ cho các mục tiêu nội tại được nêu rõ trong Quyết định số 1569/QĐ-TTg ngày 12/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050; đồng thời cũng là sứ mệnh cung cấp đội ngũ trí thức tinh hoa cho cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và toàn quốc.

Tuy nhiên, một mâu thuẫn lớn đang tồn tại giữa tầm nhìn chiến lược và thực tiễn. Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, việc phát triển nhân lực trình độ cao tại Việt Nam vẫn đối mặt với không ít hạn chế. Nghị quyết số 71-NQ/TW đã thẳng thắn chỉ ra, hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp vẫn còn “phát triển manh mún, lạc hậu”, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ mũi nhọn. Đây chính là rào cản lớn nhất, làm chậm quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chính vì vậy, bài viết sẽ tập trung phân tích sâu sắc thách thức chiến lược nói trên, đánh giá thực trạng nhu cầu nhân lực của Thủ đô và năng lực đáp ứng của hệ thống các cơ sở giáo dục đại học. Trên cơ sở đó, đề xuất một hệ thống giải pháp tổng thể, mang tính đột phá cho hệ thống đại học, đưa các cơ sở này trở thành hạt nhân thực sự trong việc đào tạo, thu hút và bồi dưỡng nhân tài cho Hà Nội.

2. Thực trạng phát triển nhân lực trình độ cao của Thủ đô Hà Nội

Hà Nội đang quyết liệt chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu với khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực cốt lõi. Định hướng này tạo ra một nhu cầu khổng lồ về một thế hệ lao động mới, có trình độ cao và kỹ năng vượt trội, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ bán dẫn và công nghệ sinh học. Nhu cầu này không chỉ là dự báo mà đã trở thành một áp lực hiện hữu.

Theo thống kê, chỉ riêng ngành công nghệ thông tin Việt Nam đã đối mặt với tình trạng thiếu hụt khoảng 200.000 nhân lực và sự thiếu hụt này tập trung chủ yếu tại các trung tâm lớn như Hà Nội2. Sự thiếu hụt về số lượng nhân lực này đáng báo động và tạo ra khoảng cách về chất lượng giữa một “lực lượng lao động” thông thường và một đội ngũ “nhân tài” ưu tú thực sự. Điểm nghẽn lớn nhất trong kỳ vọng đổi mới sáng tạo của Hà Nội không chỉ là việc lấp đầy các vị trí trống mà là bồi dưỡng những cá nhân sở hữu tư duy sáng tạo, kỹ năng giải quyết vấn đề phức tạp, năng lực dẫn dắt trong một nền kinh tế toàn cầu hóa.

Nghị quyết số 71-NQ/TW đã đặt mục tiêu về sự đột phá trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt là việc gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, thực trạng phát triển nhân lực trình độ cao tại Hà Nội vẫn còn nhiều vướng mắc:

Thứ nhất, mối liên kết giữa đào tạo và thị trường lao động còn lỏng lẻo.

Các chương trình đào tạo tại nhiều trường đại học vẫn mang nặng tính hàn lâm, thiếu sự tham gia sâu của cộng đồng doanh nghiệp trong việc thiết kế khóa học và hướng dẫn thực hành. Điều này dẫn đến tình trạng sinh viên tốt nghiệp (kể cả bậc thạc sĩ, tiến sĩ) thường thiếu các kỹ năng thực tiễn và tư duy công nghiệp, buộc doanh nghiệp phải tốn kém thời gian và chi phí đào tạo lại. Tỷ lệ nhân lực có bằng Tiến sĩ trở lên tham gia trực tiếp vào hoạt động đổi mới sáng tạo trong các doanh nghiệp công nghệ cao còn thấp.

Thứ hai, cơ chế thương mại hóa kết quả nghiên cứu kém hiệu quả.

Mặc dù các trường đại học, viện nghiên cứu ở Hà Nội có số lượng công bố khoa học đáng kể, song thiếu các cơ chế tài trợ mạo hiểm (venture funding) và các văn phòng chuyển giao công nghệ (Technology Transfer Office – TTO) chuyên nghiệp, hiệu quả. Điều này khiến các công trình nghiên cứu hàn lâm khó chuyển hóa thành sản phẩm, dịch vụ có giá trị kinh tế thực tiễn, không tạo được động lực cho giảng viên và nhà khoa học tham gia vào chuỗi giá trị đổi mới sáng tạo.

Hiện nay, dù sở hữu số lượng lớn các cơ sở giáo dục đại học, hệ thống các trường đại học vẫn đang phải đối mặt với những rào cản mang tính cấu trúc, làm hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao của Thủ đô.

(1) Rào cản về cơ chế tự chủ và quản trị đại học. Mặc dù tự chủ đại học đã được khuyến khích, việc thực thi vẫn còn nhiều vướng mắc. Cơ chế quản lý nhà nước còn nặng nề nên đã cản trở sự linh hoạt và năng động của các trường. Việc thiếu quyền tự chủ toàn diện về tài chính, nhân sự và học thuật khiến các trường khó có thể kịp thời mở các ngành đào tạo mới theo xu thế (như AI, bán dẫn), không thể đưa ra mức lương cạnh tranh để thu hút các giáo sư, chuyên gia hàng đầu và gặp khó khăn trong việc xây dựng các chương trình hợp tác quốc tế một cách thực chất.

(2) Hạn chế về chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài. Chính sách đãi ngộ dành cho giảng viên và nhà nghiên cứu tại các trường đại học công lập hiện nay chưa đủ sức cạnh tranh so với khu vực tư nhân và các quốc gia trong khu vực. Mức lương bị giới hạn bởi thang bảng lương công chức đã tạo ra một rào cản lớn trong việc thu hút và giữ chân nhân tài, đặc biệt là các nhà khoa học trẻ xuất sắc. Điều này làm suy yếu môi trường học thuật và hạn chế việc hình thành một văn hóa nghiên cứu chuyên nghiệp, hiện đại.

(3) Chuyển đổi số chậm và thiếu đồng bộ. Nghị quyết số 71-NQ/TW đặc biệt nhấn mạnh việc thúc đẩy các mô hình giáo dục số và xuyên biên giới. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi số tại nhiều trường đại học còn chậm, thiếu đầu tư đồng bộ vào hạ tầng công nghệ, thư viện số và các nền tảng học tập trực tuyến. Điều này không chỉ làm giảm cơ hội tiếp cận tri thức toàn cầu của sinh viên mà còn cản trở việc triển khai các mô hình hợp tác đào tạo tiên tiến với các đối tác quốc tế trên thế giới.

3. Giải pháp bứt phá phát triển nhân lực trình độ cao cho Thủ đô Hà Nội

Để khắc phục những hạn chế đã phân tích và khai phóng tiềm năng của hệ thống giáo dục đại học, đưa các trường đại học trở thành động lực phát triển thực sự cho Thủ đô, cần triển khai một hệ thống giải pháp đồng bộ, quyết liệt và mang tính đột phá. Đây là lộ trình chiến lược nhằm hiện thực hóa tinh thần của Nghị quyết số 71-NQ/TW. Theo đó, Hà Nội xác định:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và đổi mới quản trị với mục tiêu là tạo hành lang pháp lý vượt trội và cơ chế quản trị hiện đại, linh hoạt để giải phóng mọi nguồn lực cho phát triển nhân tài. Cụ thể:

(1) Trao quyền tự chủ toàn diện cho các trường đại học trọng điểm. Ưu tiên hàng đầu là phải thể chế hóa cơ chế tự chủ mạnh mẽ cho phép các trường đại học trọng điểm được vận hành với cơ chế tự chủ tài chính toàn diện, thoát khỏi các quy định chi tiêu công cứng nhắc. Đồng thời, cần thay thế cơ chế công chức, viên chức đối với giảng viên và nghiên cứu viên bằng cơ chế hợp đồng lao động linh hoạt, dựa trên hiệu suất và thị trường. Điều này sẽ cho phép các trường chủ động xây dựng chính sách lương thưởng cạnh tranh để thu hút và giữ chân các chuyên gia, nhà khoa học hàng đầu thế giới. Hơn nữa, cho phép góp vốn, thành lập và điều hành các doanh nghiệp khoa học công nghệ để thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

(2) Hoàn thiện Luật Thủ đô với cơ chế đặc thù vượt trội. Đây là đòn bẩy cạnh tranh quan trọng nhất, là giải pháp then chốt để tháo gỡ các điểm nghẽn về thủ tục và tài chính. Luật Thủ đô (sửa đổi) cần có những quy định đặc thù, cho phép Hà Nội đi đầu trong việc áp dụng các chính sách thu hút, đãi ngộ nhân tài, vượt qua các quy định chung hiện hành. Cần bổ sung các nội dung sau:

Cơ chế đầu tư đặc biệt: cho phép thành phố Hà Nội được trích lập và đầu tư trực tiếp vào các dự án nghiên cứu và cơ sở hạ tầng trọng điểm của các trường đại học, viện nghiên cứu (như: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội) mà không cần thông qua các thủ tục chi tiêu công thông thường nhằm thúc đẩy nhanh việc nâng cấp các phòng thí nghiệm đạt chuẩn quốc tế.

Chính sách visa và thuế ưu đãi cho chuyên gia quốc tế: thí điểm chính sách visa dài hạn (5-10 năm) và ưu đãi thuế thu nhập cá nhân đặc biệt (ví dụ: áp dụng mức thuế suất ưu đãi hoặc miễn giảm trong thời gian nhất định) cho các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế đến làm việc tại các lĩnh vực ưu tiên như AI, bán dẫn, công nghệ sinh học.

Thành lập khu đổi mới sáng tạo đặc biệt: quy định về việc thành lập và vận hành một khu vực đặc biệt (ví dụ: khu Công nghệ cao Hòa Lạc mở rộng) với cơ chế quản lý tự chủ hoàn toàn, nơi các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp công nghệ toàn cầu cùng hoạt động với các ưu đãi vượt trội về đất đai, thuế và thủ tục hành chính để tối ưu hóa, thương mại hóa tri thức.

(3) Hoàn thiện cơ cấu quản trị. Trong đó, nâng cao vai trò ra quyết định các vấn đề chiến lược, tài chính và nhân sự của lãnh đạo nhà trường. Đặc biệt, cần mời các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, chuyên gia đầu ngành và cựu sinh viên thành đạt tham gia quyết sách của nhà trường để gắn kết chặt chẽ với nhu cầu của thị trường lao động và xã hội.

(4) Ứng dụng quản trị thông minh. Hà Nội cần đi đầu trong việc sử dụng dữ liệu lớn (Big Data) và AI để phân tích, dự báo chính xác nhu cầu nhân lực, đánh giá khách quan chất lượng đào tạo và tăng cường kết nối hiệu quả giữa các cơ sở đào tạo với chiến lược phát triển của Hà Nội.

Thứ hai, xây dựng chính sách đãi ngộ vượt trội và cơ chế tài chính linh hoạt nhằm mục tiêu để tạo lợi thế cạnh tranh tuyệt đối trong việc thu hút và giữ chân nhân tài.

(1) Xây dựng khung lương đặc thù. Để giải quyết dứt điểm tình trạng chính sách đãi ngộ thiếu cạnh tranh, khi Hà Nội chỉ có thể chi trả mức tăng thêm 0,8 lần3 thì TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng đề xuất các mức lương cao gấp nhiều lần, việc xây dựng một khung lương đặc thù là yêu cầu bắt buộc. Đề xuất cơ chế lương thỏa thuận cho chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành có thể cao hơn từ 3 – 5 lần thang bảng lương công chức hiện hành để cạnh tranh sòng phẳng với khu vực tư nhân và các địa phương khác.

(2) Thành lập và vận hành “Quỹ Phát triển nhân tài khoa học công nghệ Thủ đô”. Quỹ này phải hoạt động với cơ chế tài chính linh hoạt, không bị ràng buộc bởi các quy định hành chính thông thường. Mục đích là cấp kinh phí dài hạn cho các nhóm nghiên cứu mạnh, tài trợ chi phí công bố quốc tế (SCI/SCOPUS) và hỗ trợ đăng ký, thương mại hóa sáng chế.

(3) Ban hành gói chính sách an sinh xã hội toàn diện. Ngoài thu nhập, môi trường sống là yếu tố then chốt, đề xuất các chính sách cụ thể như hỗ trợ từ 70 – 100% chi phí thuê nhà ở cho chuyên gia và cung cấp các gói bảo hiểm giáo dục tiêu chuẩn quốc tế cho con em của nhân tài để họ yên tâm cống hiến lâu dài.

Thứ ba, hiện đại hóa hạ tầng và nâng cao năng lực cốt lõi nhằm mục tiêu xây dựng nền tảng vật chất và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo đẳng cấp quốc tế. Trong đó:

(1) Đầu tư xây dựng hạ tầng nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế. Ưu tiên ngân sách để nâng cấp khẩn cấp các phòng thí nghiệm, vốn chỉ khoảng 10% đạt chuẩn quốc tế; đồng thời, đầu tư xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo liên ngành quy mô lớn, gắn liền với các đại học hàng đầu như Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Bách khoa Hà Nội.

(2) Thúc đẩy hệ sinh thái liên kết Đại học – Doanh nghiệp- Viện nghiên cứu. Xây dựng các chương trình hợp tác chiến lược với các tập đoàn công nghệ toàn cầu, như: Google, Samsung, Intel. Khuyến khích doanh nghiệp đặt hàng nghiên cứu, đầu tư vào phòng thí nghiệm tại trường đại học, tạo ra môi trường làm việc thực tiễn và cơ hội thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Song song đó, cần thành lập các quỹ đổi mới sáng tạo ngay trong trường đại học để hỗ trợ các dự án khởi nghiệp (spin-off) của giảng viên và nhà nghiên cứu, kết nối họ với các quỹ đầu tư mạo hiểm.

(3) Đổi mới chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế. Tái cấu trúc chương trình, tập trung vào các ngành mũi nhọn mà Thủ đô có nhu cầu cấp bách, như: AI, khoa học dữ liệu, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo đảm bảo đầu ra đáp ứng trực tiếp yêu cầu của thị trường lao động chất lượng cao.

Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế và giáo dục xuyên biên giới để nhanh chóng nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu, phù hợp với định hướng của Nghị quyết 71-NQ/TW. Cụ thể:

(1) Đẩy mạnh chương trình liên kết đào tạo chất lượng cao. Chính phủ và thành phố Hà Nội cần tạo cơ chế ưu đãi đặc biệt để các trường đại học tại Hà Nội có thể liên kết với các đại học trong top 100 thế giới để triển khai các chương trình cấp song bằng, đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ các hoạt động trao đổi sinh viên và giảng viên.

(2) Thúc đẩy mô hình giáo dục số và xuyên biên giới. Cần đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ số để sinh viên có thể tiếp cận các nguồn học liệu mở toàn cầu (MOOCs, thư viện số). Đồng thời, khuyến khích các trường đại học hàng đầu của Việt Nam thành lập cơ sở đào tạo ở nước ngoài, không chỉ để thu hút sinh viên quốc tế mà còn để lan tỏa tri thức và văn hóa Việt Nam.

Thứ năm, chính quyền Thủ đô cần chuyển đổi vai trò từ quản lý hành chính sang kiến tạo và hỗ trợ, tạo ra một hệ sinh thái thuận lợi nhất cho giáo dục đại học phát triển. Trong đó, chính sách thu hút và trọng dụng cần gắn với những đặc thù của Hà Nội để thu hút nhân tài, chẳng hạn, như: hỗ trợ nhà ở, ưu đãi thuế thu nhập cá nhân và tạo điều kiện làm việc tốt nhất cho các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành. Cần chủ động làm việc với các trường và doanh nghiệp để dự báo nhu cầu nhân lực, từ đó “đặt hàng” đào tạo trong các lĩnh vực chiến lược như công nghệ bán dẫn và công nghệ thông tin thông qua các chương trình học bổng và cam kết tuyển dụng. Đồng thời, hỗ trợ vốn và cơ sở vật chất, trích lập ngân sách địa phương để đồng tài trợ cho các dự án nghiên cứu ứng dụng có tác động lớn đến sự phát triển của thành phố, cũng như hỗ trợ các trường công lập hiện đại hóa cơ sở vật chất.

5. Kết luận và khuyến nghị

Phát triển nhân lực trình độ cao và bồi dưỡng nhân tài cho Thủ đô Hà Nội là một sứ mệnh chiến lược, quyết định tương lai phát triển của không chỉ thành phố mà còn cả quốc gia như tinh thần Nghị quyết 71-NQ/TW xác định, trong đó Nghị quyết đã tạo ra một khung khổ chính sách đột phá, khẳng định vai trò trung tâm của giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ.

Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần một cuộc cách mạng thực sự trong tư duy và hành động. Các cấp lãnh đạo cần xem xét, chỉ đạo các hành động cụ thể sau:

(1) Đối với Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội: cần chỉ đạo quyết liệt việc thể chế hóa các chính sách đặc thù cho nhân tài trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Thủ đô, coi đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đồng thời, phê duyệt đề án thành lập “Quỹ Phát triển nhân tài khoa học – công nghệ Thủ đô” với cơ chế tài chính linh hoạt và cấp vốn điều lệ ban đầu đủ mạnh. Ngoài ra, giao các sở, ngành liên quan xây dựng và trình duyệt khung chính sách đãi ngộ vượt trội (lương, nhà ở, phúc lợi).

(2) Đối với các trường đại học, viện nghiên cứu: cần chủ động xây dựng đề án tự chủ toàn diện, gắn với trách nhiệm giải trình và cam kết cụ thể về chất lượng đầu ra, đóng góp cho sự phát triển của Thủ đô. Đồng thời, tái cấu trúc mạnh mẽ chương trình đào tạo, tập trung vào các ngành công nghệ mũi nhọn mà Thủ đô đang có nhu cầu cấp bách.

(3) Phát triển nhân lực trình độ cao: đây không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn là yêu cầu chiến lược quyết định tương lai và vị thế của Thủ đô. Việc triển khai đồng bộ các giải pháp đã đề xuất trên sẽ là một khoản đầu tư mang tính nền tảng cho sự cạnh tranh của Hà Nội trong những thập kỷ tới. Điều này sẽ giúp Thủ đô không chỉ giải quyết các thách thức trước mắt mà còn tạo dựng nền tảng vững chắc để bứt phá, khẳng định vị thế là trung tâm tri thức, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo hàng đầu của đất nước và khu vực.

Chú thích:

1. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của Thủ đô. https://hanoimoi.vn/dai-hoi-lan-thu-xviii-dang-bo-thanh-pho-ha-noi-thanh-cong-tot-dep-thuc-day-doi-moi-sang-tao-va-chuyen-doi-so-cua-thu-do-721088.html

2. Ngành công nghệ thông tin Việt Nam đang thiếu hụt 200.000 nhân lực so với nhu cầu. https://vneconomy.vn/nganh-cong-nghe-thong-tin-viet-nam-dang-thieu-hut-200-000-nhan-luc-so-voi-nhu-cau.htm

3. Hà Nội đề xuất chi thu nhập tăng thêm 0,8 lần lương cơ bản. https://tienphong.vn/ha-noi-de-xuat-chi-thu-nhap-tang-them-08-lan-luong-co-ban-post1788261.tpo

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2025). Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo.

2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025). Báo cáo đánh giá sơ kết thực hiện Luật Giáo dục đại học giai đoạn 2019 – 2024 (kèm theo Tờ trình số 95/Tr- BGDĐT ngày 24/01/2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo).

3. Thủ tướng Chính phủ (2024). Quyết định 1569/QĐ-TTg ngày 12/12/2024 phê duyệt Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

4. Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) (2023). Skilling the Workforce for the Digital Economy.

5. Hà Nội phát triển nguồn nhân lực phục vụ chuyển đổi số. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/ky-nguyen-moi/-/2018/824635/ha-noi-phat-trien-nguon-nhan-luc-phuc-vu-chuyen-doi-so.aspx