Thực hiện quan điểm của đảng về quyền con người

(QLNN) – Trên cơ sở kế thừa thành tựu bảo đảm quyền con người trong các giai đoạn cách mạng trước đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước kém phát triển trở thành nước có thu nhập trung bình. Thành tựu phát triển của đất nước đã tạo điều kiện vật chất, tinh thần và nguồn lực để Đảng, Nhà nước ta tiếp tục bảo đảm và thúc đẩy ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản của các tầng lớp nhân dân.

Đại sứ, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại LHQ Nguyễn Phương Nga phát biểu tại Phiên thảo luận chuyên đề về quyền con người tại Đại Hội đồng Liên hợp quốc (Ảnh: TTXVN).

Quan điểm của Đảng về quyền con người

Quan điểm của Đảng về quyền con người trước thời kỳ đổi mới

Từ năm 1925, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định phải: “Sửa sang thế đạo kinh dinh nhân quyền”1. Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp cận vấn đề quyền con người (QCN) từ quyền của những con người cụ thể gắn với quyền dân tộc và khẳng định chủ nghĩa xã hội (CNXH) là chế độ tốt nhất bảo đảm QCN cho nhân dân Việt  Nam.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (năm 1930), Đảng đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2. Theo đó, nhiệm vụ của Đảng là tập hợp lực lượng toàn dân, tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người. Vấn đề QCN được thể hiện ở việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam và đề ra các khẩu hiệu đấu tranh cụ thể như “Việt Nam tự do”, đấu tranh và xây dựng một xã hội tự do tổ chức; nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục,…

Nghị quyết của quốc dân Đại hội Tân Trào (16/8 – 17/8/1945) xác định: “ban bố những quyền của dân cho dân: Nhân quyền; Tài quyền (quyền sở hữu); Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ…”3. Có thể thấy rằng, đây là nhiệm vụ xuyên suốt, là ngọn cờ tập hợp lực lượng và cũng chính là cơ sở làm nên thắng lợi của Cách mạng tháng Tám (năm 1945) do Đảng lãnh đạo.

Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lần đầu tiên  đã kế thừa, phát triển tư tưởng quyền  “tự nhiên” của mỗi cá nhân thành quyền đương nhiên của mọi dân tộc. Luận cương Cách mạng Việt Nam năm 1951 đã khẳng định rõ mục tiêu của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo là “… bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ quyền lợi của dân và bảo đảm việc công dân làm trọn nghĩa vụ với Tổ quốc. Quyền lợi đó là: được hưởng nhân quyền, tài quyền, dân quyền. Nghĩa vụ là bảo vệ đất nước, ủng hộ chính quyền nhân dân, đóng góp cho công quỹ, giữ gìn và phát triển tài sản chung của quốc gia”4.

Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn gắn QCN với quyền dân tộc. Các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ là nhằm giành quyền độc lập tự do cho dân tộc gắn với quyền của người dân Việt Nam. Nếu các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trước tiên nhằm vào việc giành quyền dân tộc thì sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc từ năm 1955 – 1975 và trên cả nước từ sau năm 1975, trước tiên nhằm vào việc bảo vệ, bảo đảm quyền công dân và luôn gắn với quyền dân tộc.

Quyền công dân được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và trong các bản Hiến pháp. Nhà nước Việt Nam cũng đã tham gia vào hệ thống pháp luật quốc tế trong hoàn cảnh đất nước đang phải tiến hành kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Chỉ hai năm sau khi đất nước hòa bình, thống nhất (năm 1977), Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên hiệp quốc (LHQ). Từ đó, Nhà nước Việt Nam đã tích cực tham gia vào hệ thống pháp luật quốc tế về QCN. Chẳng hạn, trong các năm 1981, 1982 và 1983, Nhà nước Việt Nam tham gia một loạt công ước của LHQ về QCN như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (năm 1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (năm 1966); Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (năm 1979)…

Tuy vậy, cũng phải thừa nhận rằng, trong giai đoạn lịch sử này, do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở Việt Nam, nhận thức về QCN, bảo vệ, thúc đẩy QCN, quyền công dân cũng còn một số hạn chế. Do nhận thức máy móc, giáo điều về CNXH và con đường đi lên CNXH, nên nhiều quy định về quyền công dân trong Hiến pháp, pháp luật tuy rất tốt đẹp nhưng không phù hợp thực tế và hầu như nhiều quyền đã không thực hiện được, chẳng hạn, Hiến pháp năm 1980 quy định “Nhà nước (…) thực hiện chế độ học không phải trả tiền” (Điều 60), “Nhà nước thực hiện chế độ khám bệnh và chữa bệnh không phải trả tiền” (Điều 61).

Quan điểm của Đảng về quyền con người trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

Thực tiễn phát triển đất nước, nhất là từ khoảng giữa những năm 80 của thế kỷ XX đã giúp Đảng nhận thức ngày càng rõ hơn về thời đại, về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, trong đó có công tác bảo vệ, bảo đảm QCN, quyền công dân. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) khẳng định quan điểm xuyên suốt là: “Cùng với việc chăm lo đời sống nhân dân, các cơ quan nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”5; và “… bảo đảm quyền dân chủ thật sự của nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân” 6.

Đại hội XII của Đảng (năm 2016) cùng với việc đưa nội dung QCN vào tất cả các văn kiện Đại hội, đã nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục “thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013… hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân”7; đồng thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong lĩnh vực QCN. Việt Nam là thành viên tích cực của Ủy ban QCN nhiệm kỳ 2001 – 2003 và Hội đồng nhân quyền nhiệm kỳ 2014 – 2016; là thành viên của 7/9 công ước cơ bản về QCN và ký kết nhiều công ước về an sinh xã hội cùng nhiều tuyên bố về QCN.

Trên cơ sở thực tiễn đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp năm 1992 và 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011) và trực tiếp là các chỉ thị: Chỉ thị số 12-CT/TW ngày12/7/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ; đặc biệt là Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã đúc kết những quan điểm cơ bản sau về QCN:

(1) QCN là giá trị chung của nhân loại; (2) QCN, về bản chất không có tính giai cấp, nhưng trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái niệm về QCN mang tính giai cấp; (3) QCN gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia; (4) QCN là mục tiêu, bản chất, động lực của chế độ XHCN; (5) Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân kết hợp hài hòa với quyền tập thể và không tách rời nghĩa vụ, trách nhiệm công dân; (6) QCN, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật; trách nhiệm của Nhà nước, của tất cả các ngành, các địa phương, cơ sở là phải tích cực, chủ động thực hiện nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các QCN; (7) Chủ động, tích cực hợp tác, đồng thời sẵn sàng đối thoại và kiên quyết đấu tranh trong quan hệ quốc tế vì QCN.

Thực tiễn thực hiện quan điểm của Đảng về quyền con người trong thời kỳ đổi mới

Về bảo đảm quyền học tập, từ năm 2011, đã phổ cập giáo dục tiểu học và tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Quyền sinh kế của người dân được bảo đảm bằng việc tích cực giải quyết việc làm; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm. Trong năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%, khu vực nông thôn là 1,55%8.

Hơn 30 năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt trên 6%. Riêng năm 2018: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,08%; quy mô nền kinh tế đạt trên 240 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 2.587 USD. Bất bình đẳng theo thước đo hệ số GINI (hệ số bất bình đẳng thu nhập) về tiêu dùng tăng, nhưng ở mức tương đối thấp trong khu vực ASEAN. Thực tế Việt Nam đã duy trì được mức tăng trưởng khá cao trong thời gian dài; tăng trưởng đi đôi với thành tích ấn tượng về xóa đói, giảm nghèo để nâng cao mức sống.

Việt Nam được đánh giá là nước hoàn thành nhiều nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (6/8) của LHQ (giai đoạn 2001 – 2015). Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam năm 2017 tăng 20 bậc, lên mức 68/157 quốc gia, vùng lãnh thổ. Số người tham gia bảo hiểm xã hội đạt 13,5 triệu, bảo hiểm thất nghiệp đạt 11,4 triệu; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 83%9.

Trong năm 2018, an sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn khoảng còn  6,8%10. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng liên tục trong 27 năm qua. Trong năm 2017, chỉ số HDI của nước ta  đạt 0,694  (tương tự với thứ bậc của năm 2016); và đang đứng thứ 116/189 quốc gia; tức là thuộc nhóm nước trung bình cao 11.

Trên cơ sở đó, mới đây, Thông báo Kết luận của Ban Bí thư khóa XII về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới đã nêu rõ: “Việc thể chế hóa đường lối của Ðảng, hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện, đặc biệt là Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013, đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, thực thi QCN và ngăn chặn, xử lý các hành vi xâm phạm QCN”, đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về QCN.

Các thành tựu phát triển đất nước đã tạo các điều kiện vật chất và nguồn lực để tôn trọng, bảo đảm, thúc đẩy tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của nhân dân. Ðời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt và ngày càng được nâng cao. Cùng với việc thúc đẩy bình đẳng xã hội, việc thụ hưởng các QCN của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực được nâng lên đáng kể.

Phương hướng tiếp tục thực hiện quan điểm của Đảng nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền con người hiện nay

Một là, tiếp tục đổi mới toàn diện và phát huy mạnh mẽ những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn và thúc đẩy QCN trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt giảm nghèo bền vững và bảo đảm quyền của những nhóm dễ bị tổn thương. Cần tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm, đặc biệt gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đặc biệt là hoàn thiện hệ thống pháp luật về QCN theo Hiến pháp năm 2013; đưa các quy định pháp lý về QCN vào cuộc sống một cách hiệu quả, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa – xã hội của Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Ba là, tiếp tục mở rộng phạm vi, đa dạng hóa hình thức, nội dung và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục QCN, nhất là thông tin, tuyên truyền đối ngoại về những thành tựu bảo đảm QCN của Việt Nam, được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Bốn là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chính sách, pháp luật về bảo đảm QCN gắn với nâng cao hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế. Trong quá trình đó, cần tăng cường đối thoại để nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề thực hiện dân chủ, bảo đảm QCN; đồng thời kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia, dân tộc của Việt Nam và đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, QCN để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 1995, tr. 490 – 491.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 3. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 1.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia, 2000, tr. 559.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia, 2001, tr. 105.
5, 6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. H. NXB Sự thật, 1987, tr.112, 117.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. H. NXB Chính trị quốc gia, 2016, tr. 169.
8, 10. Tổng cục Thống kê. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội năm 2018 so với năm 2017. http://www.nhandan.com.vn, ngày 01/01/2019.
9. Chỉ số phát triển con người: Chiều hướng tăng đang chững lại. http://tiasang.com.vn, ngày 06/01/2019.
11. Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2017, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV. http://baochinhphu.vn, ngày 23/10/2017.

PGS.TS, Nguyễn Thanh Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh