Tổ chức và hoạt động của Quốc hội khoá XIV – Thực trạng, nguyên nhân, phương hướng và giải pháp

(Quanlynhanuoc.vn) – Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước1. Bài viết làm rõ thực trạng tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XIV, nguyên nhân của thực trạng, phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XV.
Quang cảnh Phòng họp Diên Hồng tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV. Ảnh: QUANG HOÀNG
Thực trạng tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XIV

Thành tựu trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XIV

Thực hiện chủ trương của Đảng về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội tại Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và Kế hoạch số 735-KH/ĐĐQH14 ngày 18/01/2018 của Đảng đoàn Quốc hội đã đề ra yêu cầu, nhiệm vụ phải sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó có Luật Tổ chức Quốc hội để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đồng thời khắc phục kịp thời những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thi hành Luật thời gian qua, Quốc hội khóa XIV đã tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra lên 30%; giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp xuống 15%. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội có số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và Ủy viên Thường trực xuống dưới 05 người. Bộ máy giúp việc của Quốc hội được sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bên trong của Văn phòng Quốc hội theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, hợp nhất Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội cấp tỉnh thành một Văn phòng tham mưu giúp việc chung. Với tổng số 494 đại biểuđược bầu từ đầu nhiệm kỳ đã cơ bản bảo đảm yêu cầu về số lượng, tiêu chuẩn, chất lượng theo quy định; trong đó, tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách, đại biểu trẻ tuổi, đại biểu là người dân tộc thiểu số, đại biểu là phụ nữ, đại biểu có trình độ từ đại học trở lên đều tăng3.

Xác định công tác lập pháp là nhiệm vụ trọng tâm, Quốc hội khóa XIV tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và ban hành một khối lượng lớn văn bản quy phạm pháp luật, đã kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, tiếp tục cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập của đất nước. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 72 luật, 02 pháp lệnh và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật4, trong đó, có những đạo luật giữ vị trí, vai trò nền tảng trong hệ thống pháp luật5, có những luật hoặc chính sách mới lần đầu tiên được ban hành, tác động lớn, toàn diện, sâu sắc đến đời sống kinh tế – xã hội, kịp thời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn…6,7.

Trong nhiệm kỳ này, hoạt động giám sát của Quốc hội tiếp tục được tăng cường, có sự đổi mới, ngày càng nâng cao hiệu lực, hiệu quả, đạt được nhiều kết quả quan trọng, được cử tri và Nhân dân đánh giá cao. Nội dung giám sát tập trung vào nhiều vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Thông qua hoạt động giám sát, đã kịp thời phát hiện hạn chế, bất cập và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách, pháp luật, làm cơ sở cho việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, thúc đẩy các cơ quan hữu quan thực hiện tốt hơn nhiệm vụ.

Việc xem xét báo cáo của các cơ quan được thực hiện khá hiệu quả, thảo luận kỹ lưỡng, công khai, minh bạch, có tính xây dựng, góp phần bảo đảm tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội đúng quy định. Giám sát chuyên đề tiếp tục đi vào chiều sâu, hiệu quả rõ nét, lựa chọn “trúng” và “đúng” vấn đề. Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục có nhiều đổi mới, là nội dung thu hút sự quan tâm đặc biệt của đại biểu Quốc hội, cử tri và Nhân dân cả nước. Hoạt động xem xét việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn được tăng cường. Việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn được thực hiện theo đúng quy định tại Nghị quyết số 85/2014/QH13 của Quốc hội, góp phần tiếp tục phát huy dân chủ trong hoạt động của cơ quan dân cử cũng như trong đời sống xã hội.

Hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội tiếp tục được đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến rõ rệt. Các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội đã chú trọng giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật tại địa phương; đồng thời, bám sát và triển khai giám sát có hiệu quả các chuyên đề được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao, cung cấp nhiều thông tin thực tiễn từ địa phương, cơ sở, giúp nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần giữ vững sự ổn định tình hình chính trị, xã hội trên địa bàn…8.

Trong giai đoạn 5 năm qua, Quốc hội đã xem xét, quyết định nhiều quyết sách quan trọng, có tác động, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế – xã hội, gắn với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh, trong đó có những vấn đề mới, khó, phức tạp, chưa có tiền lệ. Quốc hội đã quyết định kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 và hằng năm, kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020, hệ thống kế hoạch trong lĩnh vực tài chính, ngân sách9; bảo đảm tính tổng thể, có sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa yêu cầu nhiệm vụ với nguồn lực thực hiện.

Đặc biệt, kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch tài chính 5 năm giai đoạn 2016-2020 lần đầu tiên được thông qua, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất cả trong ngắn hạn và trung hạn đối với lĩnh vực tài chính, ngân sách, hướng tới việc huy động và sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, bảo đảm an toàn nợ công, tính bền vững của ngân sách. Bên cạnh đó, trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới và trong nước diễn biến phức tạp, đặc biệt do ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, dịch bệnh trong năm 2020, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kịp thời quyết định mới hoặc điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với yêu cầu tại từng thời điểm, nhất là các vấn đề kinh tế – xã hội “nóng”, nổi bật, mới phát sinh.

Các mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng, chính sách tiền tệ và tài khoá được xem xét thận trọng, linh hoạt, bảo đảm ứng phó kịp thời, góp phần hạn chế các tác động bất lợi, duy trì, phục hồi các hoạt động sản xuất – kinh doanh, hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội10. Quốc hội đã bầu và phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước theo quy định, bảo đảm chặt chẽ, thận trọng, đúng quy trình và nhận được sự đồng thuận cao. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã bầu đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam giữ chức vụ Chủ tịch nước, là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, được Nhân dân và cử tri đánh giá cao. Căn cứ tình hình thực tiễn, Quốc hội đã miễn nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nhằm kịp thời kiện toàn nhân sự của bộ máy nhà nước. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các nghị quyết về tổ chức của các cơ quan hữu quan và công tác nhân sự thuộc thẩm quyền, góp phần hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã triển khai thực hiện có hiệu quả thẩm quyền mới về phê chuẩn bổ nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam11; ban hành một số nghị quyết về Nhóm nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam, nhóm đại biểu Quốc hội trẻ, tổ chức Nghị sỹ hữu nghị Việt Nam…12.

Hạn chế trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XIV

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cơ cấu đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách, đại biểu nữ, đại biểu ngoài đảng, đại biểu người dân tộc thiểu số, đại biểu là nhân sỹ, trí thức, các nhà khoa học tiêu biểu vẫn chưa đạt so với yêu cầu đặt ra; hoạt động của một số đại biểu Quốc hội, nhất là đại biểu kiêm nhiệm còn có khó khăn về thời gian cũng như điều kiện bảo đảm khác để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Một số đại biểu chưa tích cực chuẩn bị, tham gia đóng góp ý kiến, chất lượng phát biểu chưa cao; có đại biểu vi phạm pháp luật bị bãi nhiệm hoặc mất quyền đại biểu Quốc hội. Do thiếu kỹ năng nên có đại biểu còn lúng túng trong hoạt động giám sát, nhất là theo dõi, đôn đốc việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri; chưa chủ động đề xuất nội dung giám sát, đưa ra sáng kiến lập pháp hoặc tự giám sát những vấn đề mình quan tâm13

Tính dự báo trong việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa cao; Chương trình còn phải điều chỉnh nhiều, trong đó có không ít dự án được bổ sung gần sát kỳ họp Quốc hội, gây khó khăn, bị động cho việc thẩm tra, xem xét, quyết định; vẫn còn tình trạng lùi thời gian trình hoặc rút dự án ra khỏi Chương trình. Việc lấy ý kiến về dự án đôi lúc còn hình thức, thời gian dành cho lấy ý kiến ngắn, đối tượng được lấy ý kiến chưa đầy đủ; một số dự án có nội dung đánh giá tác động chưa sâu, chưa bảo đảm chất lượng, có chính sách mới được bổ sung nhưng chưa được đánh giá tác động.

Trong nhiệm kỳ này, việc Quốc hội biểu quyết những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn, còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo chưa được thực hiện theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật14để làm căn cứ cho việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện. Trong một số báo cáo thẩm tra còn có nội dung chưa thể hiện rõ quan điểm, tính phản biện đôi lúc chưa cao, chưa bảo đảm tính toàn diện, chưa cung cấp đầy đủ luận cứ phục vụ việc xem xét, lựa chọn các phương án đối với một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau. Một số luật có tính khả thi, dự báo chưa cao, vẫn còn có sự mâu thuẫn, chồng chéo, phải sửa đổi, bổ sung; một số quy định còn chung chung, nên khi triển khai thực hiện vẫn phải phụ thuộc vào văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.

Hiệu quả công tác giám sát việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật chưa cao. Một số nội dung giám sát còn chủ yếu dựa vào việc xem xét báo cáo của các cơ quan chịu sự giám sát; hoạt động giám sát, khảo sát có thời điểm còn tập trung tại một số địa phương; có trường hợp cơ quan chịu sự giám sát chưa bảo đảm tiến độ, chất lượng báo cáo theo yêu cầu. Thời gian dành cho hoạt động chất vấn chưa bảo đảm để tất cả các chất vấn của đại biểu Quốc hội đều được trả lời trực tiếp tại hội trường; một số câu hỏi và câu trả lời chất vấn có chất lượng chưa cao. Hoạt động giải trình mới chỉ được một số cơ quan quan tâm triển khai. Việc tổ chức hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội còn gặp khó khăn; hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội chủ yếu theo chương trình giám sát của Đoàn, mà ít đại biểu có hoạt động giám sát riêng. Một số yêu cầu tại các nghị quyết về giám sát chuyên đề, chất vấn chưa được nghiêm túc triển khai thực hiện; việc theo dõi, đôn đốc kiến nghị giám sát cũng chưa thực sự quyết liệt, thường xuyên;…

Một số vấn đề mang tầm chiến lược, vĩ mô chưa được thảo luận một cách đầy đủ, thấu đáo (như: quan điểm về tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế trong một chiến lược dài hạn, định hướng và giải pháp cho phát triển kinh tế vùng, ngành động lực; định hướng, giải pháp huy động và phân bổ nguồn lực của đất nước trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế…); khó đánh giá, xác định trách nhiệm trong trường hợp không hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế – xã hội đề ra;…

Nguyên nhân của thực trạng tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XIV

Luật Tổ chức Quốc hội được ban hành năm 2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016 tuy đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước ta, nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện Luật, cũng đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập cần sửa đổi, bổ sung, đó là: (i) Về đại biểu Quốc hội, quy định tiêu chuẩn về quốc tịch đối với đại biểu Quốc hội còn chưa thật cụ thể nên qua công tác bầu cử và xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV cho thấy, đã có trường hợp người ứng cử có đồng thời quốc tịch Việt Nam và quốc tịch 01 nước khác.15(ii) Về Đoàn đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội chưa có quy định về việc phê chuẩn việc cho thôi giữ chức vụ Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn đại biểu Quốc hội cũng như việc xác định địa bàn tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội trong trường hợp chuyển sinh hoạt đến Đoàn đại biểu Quốc hội khác. Một số quy định về bảo đảm kinh phí, điều kiện hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội, bảo đảm chế độ đối với đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại địa phương cần được chỉnh sửa, bổ sung để bảo đảm thực hiện chủ trương hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,…

Đất nước ta đang trong quá trình phát triển, các quan hệ kinh tế – xã hội thay đổi thường xuyên, diễn biến khó lường, dẫn đến việc chưa dự liệu đầy đủ, toàn diện. Một số cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong nhiều trường hợp chưa phát huy hết trách nhiệm trong công tác chuẩn bị dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; chưa bám sát yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật như: chưa chú trọng công tác tổng kết, đánh giá tác động của chính sách, rà soát hệ thống pháp luật cũng như việc lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan, đối tượng chịu sự tác động của chính sách theo quy định, chưa trù liệu được hết các yếu tố ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng chuẩn bị dự án, dự thảo; việc tuân thủ quy định về thời hạn chưa nghiêm, nhất là việc gửi dự án luật đến các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Trong việc trình Quốc hội biểu quyết những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo tại lần đầu cho ý kiến, các cơ quan một mặt chưa thật sự chú trọng, mặt khác, do các dự án, dự thảo được gửi đến cơ quan thẩm tra khá muộn16, nên khó có điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng để đề xuất, kiến nghị…

Trong hoạt động thẩm tra, số thành viên của các cơ quan của Quốc hội dự họp còn chưa đầy đủ, thời gian tại một số phiên họp ngắn, nguồn lực cho công tác thẩm tra còn hạn chế, một số trường hợp chưa thảo luận sâu các vấn đề lớn cũng như các điều, khoản cụ thể, các cơ quan của Quốc hội cũng chưa thực sự kiên quyết trong việc kiến nghị chưa xem xét, cho ý kiến đối với văn bản trình chậm tiến độ, hồ sơ không đầy đủ, chất lượng chưa bảo đảm. Công tác phối hợp giữa cơ quan soạn thảo với cơ quan thẩm tra cũng như giữa các cơ quan của Quốc hội trong việc tham gia thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện dự án, dự thảo có lúc chưa chặt chẽ, hiệu quả. Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động xây dựng pháp luật đôi lúc chưa nghiêm, chưa có đầy đủ các chế tài trong việc xử lý đối với trường hợp không tuân thủ quy trình xây dựng luật, pháp lệnh. Bên cạnh đó, cũng chưa có cơ chế rõ ràng, phù hợp để phát huy một cách thiết thực, hiệu quả trí tuệ của các chuyên gia, nhà khoa học cũng như việc nắm bắt, lắng nghe đầy đủ ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh của luật.

Một số nội dung giám sát có phạm vi rộng, tính chuyên sâu cao, trong khi thời gian và nguồn lực thực hiện của các cơ quan của Quốc hội còn hạn chế. Trong hoạt động chất vấn, có đại biểu Quốc hội vẫn đặt câu hỏi trùng lặp, chưa đi thẳng vào trọng tâm; một số nội dung trả lời chất vấn chỉ mới tập trung vào báo cáo thực trạng, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân và các giải pháp cụ thể khắc phục. Khối lượng công việc lớn, nhiều việc phát sinh, yêu cầu gấp về tiến độ đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động giám sát. Số lượng đại biểu tại một số Đoàn đại biểu Quốc hội không bảo đảm để triển khai được đầy đủ các hoạt động giám sát theo yêu cầu; còn thiếu quy định cụ thể về cơ chế hỗ trợ đại biểu Quốc hội để có thể tự tiến hành giám sát…

Một số vấn đề mang tầm chiến lược, vĩ mô chưa được thảo luận một cách đầy đủ, thấu đáo (như: quan điểm về tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế trong một chiến lược dài hạn, định hướng và giải pháp cho phát triển kinh tế vùng, ngành động lực; định hướng, giải pháp huy động và phân bổ nguồn lực của đất nước trong từng giai đoạn phát triển của đất nước; các cân đối vĩ mô của nền kinh tế…); khó đánh giá, xác định trách nhiệm trong trường hợp không hoàn thành các chỉ tiêu kinh tế – xã hội đề ra;…

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do một số nội dung còn chưa bảo đảm tiến độ về thời gian, gây khó khăn cho các cơ quan thẩm tra; đại biểu Quốc hội có lúc chưa được cung cấp thông tin đầy đủ, thiếu thời gian nghiên cứu chuyên sâu; chưa có quy định cụ thể về những tiêu chí, nội dung thuộc nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, nhiều chỉ tiêu mang tính định hướng, khó phân định những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội hoặc giao Chính phủ, chưa có quy định phân định các trường hợp được thực hiện điều chỉnh mục tiêu, chỉ tiêu trong một số tình huống khi tình hình kinh tế – xã hội có biến động lớn17

Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XV

Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XV

Để đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XV cần tuân thủ các phương hướng sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa chủ trương của Đảng về việc tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội được thể hiện trong các văn bản của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII và XIII; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 về việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW.

Thứ hai, hoàn thiện các quy định về hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội theo hướng chỉ quy định mang tính khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này; còn những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể thì do các luật về từng lĩnh vực quy định, tránh việc cùng một nội dung mà có nhiều văn bản cùng điều chỉnh.

Thứ bachỉ xem xét sửa đổi, bổ sung những vấn đề đã có chỉ đạo rõ, những vấn đề đã chín muồi, có nhu cầu cấp thiết trong thực tế nhằm cụ thể hóa các chỉ đạo, kết luận của Trung ương và xử lý việc thiếu thống nhất trong một số quy định giữa các luật đồng thời đã có sự đồng thuận, thống nhất cao; đối với những vấn đề còn ý kiến khác nhau hoặc chưa đánh giá hết được tác động khi thực thi thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để sửa đổi, bổ sung vào thời gian thích hợp18.

Thứ tưthực hiện tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra; giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp. Bảo đảm số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và Ủy viên Thường trực. Sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bên trong của Văn phòng Quốc hội theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XV

Để đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội khóa XV cần thực hiện quyết liệt và đồng bộ các giải pháp sau đây:

Một là, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII và Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, được sửa đổi, bổ sung năm 2020; tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Thực hiện tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách theo mục tiêu đã đề ra; nghiên cứu việc giảm hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm công tác ở các cơ quan hành pháp. Quy định số lượng với tỷ lệ hợp lý giữa lãnh đạo, Ủy viên Thường trực, Ủy viên Chuyên trách của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội theo hướng giảm số lượng cấp phó và Ủy viên Thường trực. Sắp xếp, cơ cấu lại tổ chức bên trong của Văn phòng Quốc hội theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hai là, chú trọng nâng cao chất lượng đại biểu, giảm số lượng đại biểu công tác tại các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước, tăng tỷ lệ đại biểu có trình độ, năng lực và điều kiện hoạt động Quốc hội. Các vị đại biểu Quốc hội tiếp tục phát huy trách nhiệm, chủ động hơn trong việc tham gia các hoạt động của Quốc hội; tăng cường lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của cử tri và Nhân dân, nghiên cứu, tìm hiểu, nắm bắt thực tiễn đời sống xã hội để kịp thời phản ánh, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan hữu quan; đầu tư nghiên cứu sâu, chuẩn bị ý kiến có chất lượng, chính kiến rõ ràng; tích cực tham gia đóng góp các ý kiến vào các nội dung trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Tiếp tục hoàn thiện các quy định về chế độ và các điều kiện bảo đảm để đại biểu thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. Có cơ chế thích hợp để đánh giá kết quả và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu, làm cơ sở để cử tri giám sát hoạt động của đại biểu; xem xét ban hành quy định về trình tự, thủ tục việc cử tri thực hiện quyền bãi nhiệm đại biểu Quốc hội. Có giải pháp bảo đảm số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách theo quy định (ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội), tạo lực lượng dòng cốt trong triển khai các hoạt động của Quốc hội, góp phần tăng cường chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới cách thức tổ chức và phương thức hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội trên cơ sở các quy định mới được sửa đổi, bổ sung trong nhiệm kỳ vừa qua. Kiện toàn tổ chức bộ máy Văn phòng theo hướng thống nhất, tinh gọn, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự hợp lý, rõ ràng trong việc phân định chức năng, nhiệm vụ, có tính ổn định, nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn sâu trong phục vụ hoạt động của Quốc hội.

Tăng cường đội ngũ công chức làm công tác tham mưu; tạo điều kiện để các vụ, đơn vị tập trung làm tốt nhiệm vụ tham mưu, phục vụ Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có cơ chế phù hợp để thu hút các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu về các lĩnh vực; nghiên cứu, xây dựng cơ chế thư ký giúp việc riêng cho các đại biểu Quốc hội, nhất là các đại biểu hoạt động chuyên trách. Đẩy mạnh nghiên cứu, chủ động đổi mới, sáng tạo để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu, tổng hợp, phục vụ các hoạt động của Quốc hội. Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật, điều kiện bảo đảm phục vụ các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội.

Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh hoạt động lập pháp, nâng cao chất lượng, tính đồng bộ, thống nhất, khả thi của các đạo luật. Tổ chức thực hiện nghiêm các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về việc lập dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; xác định rõ yêu cầu, điều kiện cần thiết của các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết đưa vào Chương trình, bảo đảm các dự án được tổng kết, đánh giá tác động chính sách đầy đủ, lấy ý kiến thực chất. Phân công cụ thể, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội trong việc thực hiện, đôn đốc việc thực hiện của các chủ thể liên quan để bảo đảm tính khả thi của Chương trình.

Kiên quyết không tiến hành thẩm tra dự án, dự thảo khi chưa đủ các tài liệu trong hồ sơ hoặc hồ sơ gửi không đúng thời hạn; không bố trí vào chương trình phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, kỳ họp Quốc hội những dự án, dự thảo được đề nghị bổ sung sát phiên họp, kỳ họp; hạn chế tối đa việc xem xét, cho ý kiến về nội dung đồng thời với việc quyết định bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Nâng cao trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong việc tham gia phối hợp thẩm tra; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết với hệ thống pháp luật. Cần cân nhắc kỹ lưỡng, thận trọng để chỉ sử dụng kỹ thuật một luật sửa đổi nhiều luật và lồng ghép các nội dung mang tính quy phạm trong nghị quyết kỳ họp trong những trường hợp thật sự cần thiết, cấp bách, nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Các cơ quan của Quốc hội chú trọng việc trình Quốc hội biểu quyết những vấn đề quan trọng, vấn đề lớn còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo tại kỳ họp cho ý kiến. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội phối hợp chặt chẽ, theo sát cơ quan soạn thảo trong việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; phát huy hiệu quả vai trò của các đại biểu Quốc hội chuyên trách, sự tham gia của các chuyên gia và Nhân dân vào hoạt động lập pháp.

Tiếp tục tăng cường năng lực xây dựng pháp luật cho đại biểu Quốc hội. Đổi mới mạnh mẽ trong tư duy lập pháp theo hướng chuyển đổi từ xây dựng pháp luật để tạo thuận lợi cho cơ quan nhà nước sang xây dựng pháp luật để tạo hành lang pháp lý cho cơ quan, tổ chức, người dân được bảo đảm thực hiện các quyền của mình. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội quan tâm thực hiện việc trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết; đại biểu Quốc hội tăng cường thực hiện quyền kiến nghị về luật, pháp lệnh và quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội. Hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ mới trong hoạt động lập pháp của Quốc hội đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Năm là, xác định tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu trọng tâm, “mũi nhọn” để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Xây dựng chương trình giám sát bám sát tình hình thực tiễn, tập trung vào hoạt động của bộ máy nhà nước, vấn đề được dư luận, cử tri, đại biểu Quốc hội quan tâm, gắn với công tác lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng. Bảo đảm cân đối giữa các hoạt động giám sát (xem xét báo cáo, giám sát chuyên đề, chất vấn, giám sát văn bản quy phạm pháp luật…), mặt khác, đẩy mạnh một số hoạt động được quan tâm (như: chất vấn, giải trình). Tiếp tục chú trọng công tác chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng công tác phối hợp phục vụ hoạt động giám sát.

Tăng cường tính tranh luận, đi sâu làm rõ vấn đề, trách nhiệm trong thảo luận, xem xét các báo cáo, chất vấn và trả lời chất vấn. Nghị quyết về giám sát, chất vấn cần có các tiêu chí định lượng rõ ràng, mốc thời gian, trách nhiệm thực hiện cụ thể của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Tiếp tục phát huy kinh nghiệm, cải tiến, đổi mới trong giám sát chuyên đề; đẩy mạnh tương tác với đối tượng chịu sự ảnh hưởng của chính sách, pháp luật; tăng cường sử dụng thông tin từ cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, chuyên gia, nhà nghiên cứu trong xây dựng báo cáo và nghị quyết giám sát.

Đẩy mạnh công tác giám sát văn bản quy phạm pháp luật theo hướng tập trung vào hệ thống văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết và hằng năm báo cáo Quốc hội về kết quả giám sát. Chú trọng giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn; tăng cường xem xét các kiến nghị giám sát chưa được thực hiện, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Tăng cường hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội bảo đảm chất lượng, khả thi, hiệu quả, tránh hình thức, phù hợp với khả năng, nguồn lực; chủ động phối hợp với các Đoàn giám sát của các cơ quan của Quốc hội, với Thường trực, các Ban của Hội đồng nhân dân nhằm tránh sự chồng chéo.

Sáu là, rà soát, chuẩn hóa các quy định về xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước theo hướng xác định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan trình, cơ quan thẩm tra; quy định rõ hơn việc phân công, phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội trong việc thẩm tra các báo cáo, dự án; quy định trách nhiệm tổ chức, thực hiện nghị quyết của Quốc hội về các vấn đề quan trọng. Tăng cường việc cung cấp đầy đủ thông tin cho đại biểu Quốc hội làm cơ sở cho việc xem xét, quyết định. Làm rõ vai trò, nâng cao tính pháp lý và tính độc lập của Hội đồng thẩm định nhà nước trong việc thẩm định các dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư.

Chú thích:
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Tổng số ĐBQH: 494 (trúng cử: 496 người, 02 người không được xác nhận tư cách ĐB). Hiện nay: 481 ĐBQH (cho thôi: 05 ĐB, từ trần: 05 ĐB, mất quyền ĐB: 02 ĐB, bãi nhiệm: 01 ĐB).
3. Quốc hội khóa XIV (2021), Dự thảo Báo cáo công tác của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIV ngày 06/02/2021.
4. Chưa bao gồm các luật, nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11.
5. Ban hành một số luật về tổ chức bộ máy (như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương;…); các luật về thể chế kinh tế thị trường (như: Luật Đầu tư; Luật Doanh nghiệp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng;…); các luật về công chức, công vụ (như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức;…).
6. Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công – tư, Luật An ninh mạng, Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia, Luật Cư trú, Luật Bảo vệ môi trường, Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Phòng, chống tham nhũng,…
7. Các nghị quyết về: tổ chức chính quyền đô thị, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM; thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, một số cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách đặc thù đối với TP. Hà Nội; thí điểm mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Đà Nẵng; thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế…
8. Các nghị quyết về: tổ chức chính quyền đô thị, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM; thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, một số cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách đặc thù đối với TP. Hà Nội; thí điểm mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Đà Nẵng; thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế…
9. Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, kế hoạch tài chính – NSNN 03 năm quốc gia, dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW và phê chuẩn quyết toán NSNN hằng năm;…
10. Như: giảm thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2020 đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác; chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN; cho kéo dài thời kỳ ổn định NSNN giai đoạn 2017-2020 sang năm 2021; lùi thời gian ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên sang năm 2021 để áp dụng cho thời kỳ ổn định ngân sáchmới; bổ sung dự toán chi NSNN năm 2020 để bổ sung vốn điều lệ cho Agribank từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi NSTWnăm 2019; chưa thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và lương hưu từ ngày 01/7/2020; tháo gỡ khó khăn cho Vietnam Airlines. UBTVQH đã kịp thời xem xét, cho ý kiến về các biện pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19…
11. Phê chuẩn bổ nhiệm 103 đại sứ, điều chỉnh địa bàn kiêm nhiệm của 5 đại sứ.
12. Các nghị quyết về: tổ chức chính quyền đô thị, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM; thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, một số cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách đặc thù đối với TP. Hà Nội; thí điểm mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Đà Nẵng; thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất QPAN kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế…
13. Các nghị quyết về: tổ chức chính quyền đô thị, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM; thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, một số cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách đặc thù đối với TP. Hà Nội; thí điểm mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thùphát triển TP. Đà Nẵng; thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất QPAN kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế…
14. Theo khoản 5 Điều 74, điểm d khoản 1 Điều 75, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.Tuy nhiên, Quốc hội mới chỉ tổ chức lấy phiếu xin ý kiến bằng văn bản giấy hoặc qua hệ thống điện tử về một số vấn đề lớn, còn có ý kiến khác của dự án, dự thảo để làm cơ sở cho việc tiếp thu, chỉnh lý.
15. Trong khi Luật Cán bộ, công chức đã có quy định người được tuyển làm công chức chỉ có 01 quốc tịch là quốc tịch Việt Nam (điểm a khoản 1 Điều 36).
16. Thường chỉ 1-1,5 tháng trước ngày khai mạc kỳ họp.
17. Các nghị quyết về: tổ chức chính quyền đô thị, thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.HCM; thí điểm tổ chức chính quyền đô thị, một số cơ chế, chính sách tài chính – ngân sách đặc thù đối với TP. Hà Nội; thí điểm mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Đà Nẵng; thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất QPAN kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế…
18. Tờ trình số 442/TTr-UBTVQH14 ngày 26/9/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội.

PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
Học viện Báo chí và Tuyên truyền