Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Thiếu tá Ngô Minh Đức
Hệ 5, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
(Quanlynhanuoc.vn) – Chủ tịch Hồ Chí Minh – nhà yêu nước vĩ đại, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào giải phóng dân tộc. Người suốt đời hy sinh phấn đấu không chỉ cho độc lập, tự do và hạnh phúc của Nhân dân Việt Nam, mà còn đấu tranh không mệt mỏi cho sự đoàn kết, tình hữu nghị giữa các dân tộc, quốc gia trên thế giới. Tư tưởng về đoàn kết quốc tế là một trong những nội dung cốt lõi, một bộ phận rất đặc sắc trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu, tìm hiểu giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng trong mọi quan đoạn cách mạng.

Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh; đoàn kết dân tộc; đoàn kết quốc tế; ý nghĩa quan trọng.

Đặt vấn đề

Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, đoàn kết quốc tế là một đòi hỏi khách quan, một vấn đề có tính nguyên tắc, là chiến lược xuyên suốt, nhất quán đối với cách mạng Việt Nam, là yếu tố quan trọng làm nên sức mạnh của cách mạng giải phóng các dân tộc nói chung và cách mạng ở Việt Nam nói riêng. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết một triết lý sâu sắc: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”1. Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện cả về tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền, trong phạm vi dân tộc Việt Nam mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm nhiều nội dung rộng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.

Giá trị lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Chiến lược đoàn kết quốc tế là một bộ phận quan trọng không thể tách rời của tư tưởng Hồ Chí Minh. Soi chiếu vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX, chúng ta có thể rút ra được ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng là “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nghĩa là vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để xem xét các mối quan hệ quốc tế, phân biệt rõ bạn – thù, tranh thủ mọi lực lượng có thể đoàn kết, thu hẹp tối thiểu trận tuyến kẻ thù. Thực tế cho thấy, những quan điểm về đoàn kết quốc tế mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra có tính thời sự sâu sắc. 

Sinh ra và lớn lên trong thời buổi đất nước bị giặc ngoại xâm đô hộ, Người đã sớm cảm nhận được ngay trên đất nước mình chính sách “chia để trị” mà chủ nghĩa thực dân đang thực thi nhằm duy trì sự thống trị tàn bạo của chúng. Nhận thức này ngày càng được củng cố khi Người quyết định ra nước ngoài khảo sát thực tế, tìm bạn đồng minh cho cách mạng Việt Nam. Mặc dù trước đó, đã có nhiều nhà yêu nước Việt Nam ra nước ngoài cầu viện, tập hợp, tổ chức lực lượng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc (tiêu biểu có Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh). Song các bậc tiền bối này chưa nhận thức được sức mạnh nội sinh của dân tộc cũng như nhân tố quốc tế trong cuộc đấu tranh cho độc lập, tự do. Do chưa phân định được rõ ranh giới bạn – thù và vì vậy đã không tim được đồng minh đáng tin cậy. Do đó, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước ở Việt Nam đều bị thất bại, ở trong tình trạng khủng hoảng như không có đường ra.

Từ cảm nhận được sự thống khổ của người dân nước mình, Hồ Chí Minh vượt qua những hạn chế về mặt lịch sử, quyết tâm tìm hướng đi riêng để mở lối ra cho dân tộc. Trong những năm khảo nghiệm thực tế sau đó, nhận thức của Người về chủ nghĩa đế quốc, về liên minh đoàn kết càng được nâng cao. Đặc biệt, sau khi tiếp thu Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người đã xác định rõ hơn con đường giải phóng dân tộc mình cũng như các dân tộc thuộc địa khác, hình thành nên chiến lược đoàn kết quốc tế. Đó là sự liên minh giữa các dân tộc bị áp bức, giữa giai cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa… Nghĩa là, Người đã xác định được vị trí của các dân tộc bị áp bức nói chung trong cuộc đấu tranh vĩ đại của lịch sử nhân loại, điều mà các bậc tiền bối trước đó chưa ai nhận thức được. Quan điểm này đã soi đường, chỉ lối cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Người là biểu tượng cho tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc và đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cao cả đó. Đây được coi là giá trị lý luận rất cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. 

Đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới còn thể hiện ở sự vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin về đoàn kết quốc tế để giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc cho Nhân dân Việt Nam, góp phần đấu tranh cho hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Thời đại mà Hồ Chí Minh sinh ra và hoạt động là thời đại cách mạng vô sản, chủ nghĩa cộng sản từ lý thuyết trở thành hiện thực sinh động. Trong bối cảnh đó, giữa hàng ngàn các học thuyết, tư tưởng khác, chủ nghĩa Mác – Lênin được xem là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, khoa học nhất của thời đại. 

Thực tế cho thấy, sức hấp dẫn của học thuyết này đã chinh phục hàng triệu triệu con tim, khối óc của nhân loại. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã làm một cuộc cách mạng khi đặt giai cấp vô sản làm thuê, bị bóc lột trong xã hội tư bản trở thành chủ thể sáng tạo của lịch sử, tạo ra thế giới tự do, bình đẳng, bác ái, không còn người bóc lột người. Trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, họ “chẳng mất gì hết, ngoài những xiềng xích trói buộc”, nhưng nếu thành công, họ “sẽ giành được cả thế giới”2.

Để bảo đảm giai cấp vô sản có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử, chính C.Mác – Ph.Ăngghen đã sáng lập Đồng minh những người cộng sản và soạn thảo bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Khẩu hiệu chiến đấu mà các ông nêu ra là: “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”3. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử sống trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, thuộc địa chưa trở thành vấn đề nhức nhối nên các ông chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu và đưa ra hướng giải quyết. V.I.Lênin kế thừa và tiếp tục phát triển tư tưởng tập hợp lực lượng cách mạng của C.Mác – Ph.Ăngghen. Trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, V.I.Lênin nhận thấy tính tất yếu phải đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản với nhân dân các nước bị áp bức cùng chống kẻ thù chung. Vì thế, khẩu hiệu chiến lược mà ông nêu ra là: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”4.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin vì học thuyết này đã chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực lượng cách mạng toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Từ đây, Người có đầy đủ cơ sở khoa học để đánh giá chính xác những yếu tố tích cực, những hạn chế của di sản dân tộc, văn hoá nhân loại, tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới. Song chủ nghĩa Mác – Lênin không phải là giáo điều, Người đã vận dụng sáng tạo, thích hợp trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù hợp với xu thế phát triển khách quan của thời đại.  

Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước qua nhiều châu lục khác nhau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấu hiểu nỗi cơ cực và khát vọng thoát khỏi sự áp bức của các dân tộc thuộc địa, hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Người nhận thấy các dân tộc bị áp bức phải đoàn kết lại với nhau thành một mặt trận và đoàn kết với giai cấp vô sản chính quốc mới mong thoát khỏi ách thống trị của “con đỉa hai vòi” đế quốc. Bằng lòng nhiệt tình cách mạng, Người luôn nỗ lực trong việc giúp nhân dân các nước thuộc địa hiểu nhau, khắc phục “sự biệt lập” vốn có; giúp giai cấp vô sản và ngay cả các đảng cộng sản ở chính quốc hiểu hơn về các nước thuộc địa, lệ thuộc vì lúc đó số đông người “vẫn còn tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn toàn không để ý gì đến”5. Theo Người, chỉ khi giai cấp vô sản và nhân dân lao động các nước hiểu nhau, cùng phối hợp làm cách mạng nhịp nhàng như “hai cánh của một con chim” thì mới có thể đánh bại được kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, đế quốc.

Điểm sáng tạo trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với những người sáng lập chủ nghĩa Mác là Người không chỉ nêu ra sự cần thiết liên minh giữa giai cấp vô sản chính quốc với các dân tộc thuộc địa mà còn thấy được sức mạnh tiềm tàng của cách mạng thuộc địa. Nếu như thời kỳ trước, Mác, Ăngghen, Lênin vẫn khẳng định thành công của cách mạng vô sản trước hết vẫn là các nước tư bản phương Tây, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhận thấy khả năng ấy nằm nhiều hơn trong tay các nước phương Đông – nơi có nhiều thuộc địa. Người lý giải rằng thuộc địa là một khâu yếu của chủ nghĩa tư bản. Muốn đánh bại con đỉa thực dân, đế quốc thì phải chặt đứt được mắt xích này. Do vậy, Người không xem cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc mà đặt chúng ngang nhau. Thậm chí, Người còn tiên đoán cách mạng thuộc địa có thể thắng lợi trước và trợ giúp cho thành công của cách mạng vô sản chính quốc. Đây được xem là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng thế giới nói chung, góp phần làm phong phú hơn lý luận của chủ nghĩa Mác. Phát triển khẩu hiệu chiến lược trong vấn đề đoàn kết quốc tế của chủ nghĩa Mác, Người kêu gọi: “Lao động toàn thế giới, liên hiệp lại!”. Khẩu hiệu này đã gieo hạt giống đoàn kết, trở thành ngọn cờ chỉ đường dẫn tới thành công của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói riêng, cách mạng vô sản toàn thế giới nói chung.

Giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế

Đánh giá về vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với lịch sử nhân loại trong thế kỷ XX, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Người, tổ chức UNESCO đã khái quát: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của Nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”6. Sự đóng góp của Người đối với nhân loại và những tư tưởng của Người “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”7.

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần đưa khẩu hiệu đoàn kết quốc tế: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!” trở thành thực tiễn sinh động trong thế kỷ XX.

Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, hoạt động thực tiễn đã giúp Người hiểu rõ hơn các khái niệm thế nào là thuộc địa, đế quốc, giai cấp vô sản… Người cũng trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của các dân tộc trên thế giới, tìm hiểu cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm 1789, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Vì vậy, sau khi tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã phân tích, so sánh toàn diện các con đường cứu nước và khẳng định nhất quán muốn giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác là đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười – cách mạng vô sản. Theo Người, các nước như Mỹ, Pháp tuy làm cách mạng nhưng không “đến nơi”, nghĩa là Nhân dân vẫn phải chịu khổ, vẫn phải toan tính làm cách mạng lần nữa mới mong thoát khỏi sự áp bức. Còn Cách mạng Tháng Mười Nga là cách mạng “đến nơi”, vì thắng lợi của nó đưa lại kết quả “nhân dân lao động đã làm chủ nước nhà, những dân tộc nhỏ yếu giành được độc lập, ruộng đất trở về tay người cày”8. Nó đem lại cho các dân tộc sức mạnh của đoàn kết quốc tế, đủ sức đương đầu với đế quốc, thực dân. 

Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ xa rời mục tiêu của cách mạng thế giới. Người luôn chủ động kết hợp hài hòa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu cách mạng thế giới phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn. Đây là cống hiến quan trọng của Người đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong việc khắc phục khủng hoảng về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc, xác định hướng đi đúng đắn cho các dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Tiến trình cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới trong thế kỷ XX đã chứng minh cho cống hiến trên của Người, thừa nhận Hồ Chí Minh là người chỉ đường thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc thế giới.

Với việc vạch hướng đi đúng và biến nó thành hiện thực trong phong trào cách mạng thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dần hình thành nên chiến lược đoàn kết quốc tế. Theo Người, các dân tộc thuộc địa phải đoàn kết lại với nhau thành một mặt trận vững chắc và sức mạnh đó lại càng nhân lên khi biết liên hệ với cách mạng vô sản ở chính quốc. Người đã hoạt động không mệt mỏi cho sự liên hiệp này bằng cách giúp cho các dân tộc thuộc địa và Nhân dân các nước “chính quốc” hiểu nhau. Người từng vạch ra sai lầm trong nhận thức của những người cộng sản ở “chính quốc” về vấn đề thuộc địa khi họ cho rằng “Người bản xứ là một hạng người thấp kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và lại càng không có khả năng hoạt động”9. Trong khi đó, người dân bản xứ lại coi “những người Pháp – mặc dầu họ là hạng người nào cũng đều là những kẻ bóc lột độc ác”10. Để khắc phục tình trạng thiếu hiểu biết lẫn nhau này, Người kêu gọi những người cộng sản hãy quan tâm nhiều hơn đến thuộc địa: “Nếu các đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”11

Bằng hành động thực tế, Người tham gia các hoạt động quốc tế tiêu biểu như gia nhập Đảng Xã hội Pháp, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, tham dự các Hội nghị của Quốc tế Cộng sản… Đặc biệt, Người đã lập ra hai tổ chức chính trị mang tính chất quốc tế là Hội liên hiệp thuộc địa và Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức, hình thành mặt trận đoàn kết giữa các dân tộc bị áp bức. Mặt trận này cùng với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc tạo thành hai dòng thác lớn chống lại chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Đó là những việc làm thiết thực nhằm biến khẩu hiệu chiến lược của V.I.Lênin thành thực tiễn sinh động chống đế quốc, thực dân, giành độc lập, tự do và tiến bộ xã hội cho mỗi dân tộc. 

Những hoạt động hiệu quả của Hồ Chí Minh trong xây dựng đoàn kết quốc tế đã góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Thành công của Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp cũng như thắng lợi ở một loạt quốc gia tại châu Á, châu Phi, khu vực Mỹ Latinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là minh chứng cho giá trị thực tiễn của chiến lược đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người không chỉ vận dụng đúng đắn mà còn có nhiều đóng góp sáng tạo vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. 

Ngày nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến mau lẹ và khó lường. Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập đang lôi cuốn nhiều quốc gia tham gia liên kết, hợp tác, đấu tranh trong các quan hệ đa phương, song phương. Đây vừa là thời cơ, vừa là thách thức đối với các quốc gia dân tộc, nhất là những nước có nền kinh tế kém hoặc đang phát triển. Làm thế nào để tranh thủ được thời cơ, vượt qua mọi thách thức đang trở thành câu hỏi lớn cho nhiều quốc gia trên con đường phát triển. Tình hình trên đặt ra cho Đảng và Nhân dân ta những vấn đề lớn nhằm đưa đất nước đi lên trong xu thế chung của thế giới. Do vậy, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế một cách sáng tạo và phù hợp trong giai đoạn hiện nay trở thành một nội dung rất quan trọng và cần thiết.

Kết luận

Đoàn kết quốc tế là một bộ phận hữu cơ trong tư tưởng đại đoàn kết và trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong tiến trình đổi mới đất nước, nhờ vận dụng phù hợp, sáng tạo quan điểm đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đưa cách mạng Việt Nam từng bước hòa vào dòng chảy của cách mạng thế giới, gắn liền với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đồng thời,đóng góp tích cực cho nền hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Ngày nay, mặc dù tình hình quốc tế, khu vực và Việt Nam đã có nhiều thay đổi căn bản, nhưng những giá trị lý luận và giá trị thực tiễn về đoàn kết quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị, có ý nghĩa chiến lược và tiếp tục được quán triệt, thấm sâu vào mọi chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tạo nền tảng vững chắc để Việt Nam hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và hiệu quả.

Chú thích:
1, 11. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 628, 585.
2, 3. C.Mác – Ph.Ăngghen Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia, 1995, tr. 646, 646.
4. V.I. Lê-nin.Toàn tập. Tập 42. H. NXB. Chính trị quốc gia, 2006, tr. 86.
5. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 80.
6. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc – nhà văn hoá lớn. H. NXB Khoa học xã hội, 1990, tr. 9.
7. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam: Hồ Chí Minh  - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa. H. NXB. Khoa học xã hội, năm 1990, tr. 5.
8. Con đường cứu nước và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay (1-1959). https://tennguoidepnhat.net, ngày 03/5/2012 
9. Hồ Chí Minh toàn tập – tập 1 năm 1922 (phần 1). https://www.bqllang.gov.vn, ngày 20/4/2012.
10. Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, văn hóa. https://www.bqllang.gov.vn, ngày 23/6/2017.