Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các lĩnh vực xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

TS. Đặng Văn Luận
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
TS. Hoàng Ngọc Nguyên Hồng
Học viện Cảnh sát nhân dân

(Quanlynhanuoc.vn) – Dân chủ là khát vọng ngàn xưa của nhân loại từ khi có nhà nước, đồng thời, dân chủ cũng là thành quả đấu tranh của nhân loại cho một xã hội tiến bộ, văn minh. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề dân chủ trên các lĩnh vực “chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”, coi đó là “cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Bài viết phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trên các lĩnh vực xã hội và sự vận dụng tư tưởng về dân chủ của Người trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.

Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh; dân chủ; lĩnh vực xã hội; tư tưởng; thời kỳ đổi mới.

1. Đặt vấn đề

Kế thừa các quan điểm trong lịch sử về “dân chủ”, về sức mạnh của dân chủ, về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”1; “Gốc có vững cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”2. Đảng Cộng sản Việt Nam được lịch sử lựa chọn và giao phó cho sứ mệnh to lớn là lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng toàn bộ sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Do đó, Đảng phải đồng thời vừa là “người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”3. Bởi Nhân dân chỉ có thể phát huy đầy đủ, tối đa sức mạnh của mình khi có “một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”4 lãnh đạo, thì sẽ “tạo ra một lực lượng xã hội hùng hậu có sức mạnh tương ứng, tự giác bảo vệ cho chế độ xã hội; bảo vệ Nhân dân khỏi những toan tính của những lực lượng phản động muốn phá hoại Nhà nước xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”5

Di sản lý luận Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại là một hệ tư tưởng vừa sâu sắc, vừa hiện đại về dân chủ với tư cách là “của quý báu nhất của Nhân dân”, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”6, mọi công việc lớn nhỏ của sự nghiệp cách mạng. Theo Người, việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải trên mọi lĩnh vực của thực tiễn, nhưng “có bốn vấn đề chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”7. Trong đó, các lĩnh vực xã hội đều là những nhiệm vụ cơ bản nhất của cơ quan công quyền, có quan hệ mật thiết đến quyền lợi của Nhân dân, của cán bộ, công chức và của sức mạnh quốc gia. 

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các lĩnh vực xã hội 

Lý luận và thực tiễn đã minh chứng rằng, con người chỉ thông qua quyền dân chủ và thực hành dân chủ mới có thể hoạt động tích cực, chủ động và sáng tạo đối với quá trình lịch sử hình thành và phát triển xã hội loài người. Có lẽ, chính vì thế mà trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh để lại có tới 106 lần Người nhắc tới dân chủ, trong đó có 62 lần đề cập đến chế độ dân chủ, 44 lần nói về nền dân chủ. Theo Người, thực hành dân chủ trong xã hội là để làm cho dân, ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do. Người viết: “Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”8 xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra các nội dung cụ thể trong các quyền dân chủ của Nhân dân về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, đồng thời đề xuất các cơ chế và biện pháp để bảo đảm cho thực hành dân chủ trong thực tiễn. 

Bên cạnh dân chủ về chính trị và kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt coi trọng việc thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực xã hội. Bởi dân chủ giữa 3 yếu tố này có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Người đã chỉ ra các âm mưu, thủ đoạn tàn bạo của chế độ thực dân đối với Nhân dân các nước thuộc địa nói chung và Nhân dân Việt Nam nói riêng: “Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”9. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trên các lĩnh vực xã hội được thể hiện trên nhiều khía cạnh, nhiều phương diện rộng, cụ thể là một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực giáo dục.

Xuyên suốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ khi Người ra đi tìm đường cứu nước đến khi trút hơi thở cuối cùng là tư tưởng vì con người, nhất là thế hệ trẻ, với mong muốn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em10. Với bao trăn trở, Người đã tìm cho nước ta những nét tiến bộ của một nền giáo dục kiểu mới, đó là nền giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân văn, nhân đạo, tính dân chủ cao cả.

Ngay trong ngày 03/9/1945, tại phiên họp Chính phủ đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề xuất 6 nhiệm vụ cấp bách đối với chính quyền Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, trong đó “Vấn đề thứ hai, nạn dốt” là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ, nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị, mở chiến dịch chống nạn mù chữ”11, vì một dân tộc dốt sẽ không thể có đủ năng lực “làm chủ” vận mệnh đất nước được. Do đó, nhiệm vụ cấp bách là phải, “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH”12. Để dân tộc chúng ta trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với một nước Việt Nam độc lập. Nhiệm vụ này tuy khiêm tốn nhưng hết sức vĩ đại ở tầm nhìn, độ chính xác và ở tính thời sự, tính nhân văn, nhân đạo, Nhân dân.

Trong xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải quan tâm xây dựng nền giáo dục kiểu mới. Một trong những mục tiêu cao nhất của nền giáo dục mới, nền giáo dục cách mạng Việt Nam là đào tạo công dân hữu ích cho nước nhà, phát triển toàn diện những năng lực sẵn có, trang bị cho mỗi người dân kiến thức mới để biến một quốc gia có trình độ thấp thành một đất nước có nền văn hóa cao với đời sống tươi vui và hạnh phúc. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giáo dục. Theo đó, yếu tố cần thiết đầu tiên là đào tạo và xây dựng đội ngũ làm giáo dục, đặc biệt là các thầy giáo, cô giáo – những người vẻ vang nhất, những anh hùng, những kỹ sư tâm hồn, vì “không có thầy giáo, cô giáo thì không có giáo dục”. 

Để đạt được điều đó, mỗi thầy, cô giáo cần không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị và phẩm chất đạo đức cách mạng của nhà giáo, thực sự vừa “hồng” vừa “chuyên”, thực sự yêu nghề, yêu trường. Hơn nữa, người thầy phải không ngừng rèn luyện trong thực tiễn sinh động của xã hội, tiếp thu chất lượng sống để trao truyền lại cho thế hệ trẻ. Những kiến thức thực tiễn này mới thật sự là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng thế hệ tương lai. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. 

Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý13. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh mang lại một ý nghĩa vô cùng to lớn đối với giáo dục Việt Nam, không chỉ trong hoàn cảnh trước đây, mà ngay cả hiện nay. Mục tiêu của giáo dục là đào tạo ra những công dân có ích cho xã hội, người làm chủ vận mệnh đất nước Việt Nam và là nguồn nhân lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng muốn làm chủ được tốt, cần phải học hỏi, nâng cao trình độ thì mới có năng lực làm chủ vận mệnh dân tộc. Năng lực làm chủ của người dân chỉ có thể được tạo ra trước hết trong môi trường giáo dục, ở nhà trường và ngoài xã hội. Muốn thế, trước hết phải nâng cao trình độ hiểu biết cho Nhân dân, đặc biệt là quyền dân chủ và những cách thức thực hành dân chủ. Chỉ khi đó dân chủ mới trở thành động lực góp phần xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam. Như thế, từ “dân là chủ” tiến lên thành “dân làm chủ” là một bước tiến lớn về chất trong tiến trình dân chủ, trong đó, có vai trò to lớn của việc thực hiện dân chủ trong giáo dục. 

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các lĩnh vực y tế. 

Để thực hiện dân chủ trong lĩnh vực y tế, bảo đảm cho Nhân dân được thụ hưởng các dịch vụ ưu việt do Nhà nước xã hội chủ nghĩa mang lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, nhiệm vụ của ngành y tế và phẩm chất của người thầy thuốc,  “cán bộ y tế cần phải thương yêu người bệnh như anh em ruột thịt”,“lương y phải kiêm từ mẫu14, tận tâm, tận lực phục vụ Nhân dân. Bởi vì, “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”15

Điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các lĩnh vực y tế là người thầy thuốc phải như một mẹ hiền, tức “lương y phải như từ mẫu”. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu Đảng và Chính phủ dùng chữ “phải” với yêu cầu người thầy thuốc đồng thời cũng là người cán bộ cách mạng trong chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa phải có trách nhiệm “phục vụ Nhân dân”. Tất cả cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước phải xác định mình là “công bộc” của Nhân dân, “Nhân dân là trung tâm”, là chủ thể thực sự của quyền lực nhà nước nên trong mọi hoạt động phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Người thầy thuốc cũng như người cán bộ cách mạng, phải hội tụ đầy đủ các đức tính tốt đẹp, như: dịu dàng, tận tình, chu đáo, chịu khó, chịu khổ, sẵn sàng hy sinh để làm tròn phận sự cứu người, phục vụ Nhân dân. Đồng thời, họ phải rèn luyện để tránh những thói xấu như vụ lợi, tiêu cực, hách dịch, tắc trách, lạnh lùng khi tiếp xúc với người bệnh.

Thực hành dân chủ trong lĩnh vực y tế, bảo đảm cho quyền lợi, quyền làm chủ của Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng một nền y tế “từ Bộ trưởng, Thứ trưởng, bác sĩ, dược sĩ cho đến các anh em giúp việc”, tuy “công việc và địa vị tuy có khác nhau nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế, trong việc phục vụ nhân dân16, có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân. 

Tổng kết thực tiễn cách mạng, Người cho rằng: “Ta quan tâm đời sống quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta. Ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác”17 cách mạng. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước là tài sản quý báu nhất của Đảng và Nhà nước (dĩ công vi thượng). Do vậy, để được dân tin, dân mến, dân phục và có được lòng dân, trước hết mỗi cán bộ, đảng viên, thầy thuốc phải yêu dân, kính dân, đặt quyền lợi của Nhân dân lên trên quyền lợi cá nhân. Đồng thời, họ cần tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng, suốt đời phục vụ Nhân dân. Đây vừa là trách nhiệm, vừa là nhiệm vụ cao quý nhất của người cán bộ, đảng viên và của cả ngành Y tế trong xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các lĩnh vực an sinh xã hội.

Quan tâm đến vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực an sinh xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý đến những vấn đề hết sức thiết thực đối với mỗi người dân. Đầu tiên trong điều kiện hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh thì việc giải phóng con người khỏi những áp bức, bóc lột, bất công, tạo ra sự bình đẳng giữa người với người, đề cao quyền được sống, quyền được tự do và được mưu cầu hạnh phúc là cần thiết. Trên hành trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu nhiều mô hình tổ chức bộ máy nhà nước trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đồng thời khởi xướng cuộc đấu tranh giành lại nền độc lập cho dân tộc, tự do và hạnh phúc cho Nhân dân Việt Nam bằng việc lên án, tố cáo bản chất vô nhân đạo, phản động của bộ máy chính quyền thực dân và tay sai đang thống trị ở các thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cần phải thay thế bộ máy nhà nước vô nhân đạo, phản động đó bằng một bộ máy nhà nước mới tiến bộ hơn, tốt đẹp hơn: “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”18.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều là công cụ để thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân; quyền lực của cán bộ, công chức nhà nước là do Nhân dân ủy quyền, trao quyền mà có, đại diện cho Nhân dân để gánh vác, giải quyết những công việc chung của đất nước. Nhân dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Cán bộ, công chức chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong các lĩnh vực an sinh xã hội được thể hiện cụ thể và đánh giá bằng thước đo cụ thể. Chúng ta đã đánh đuổi được đế quốc thực dân, giành được độc lập, “xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do,thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”19. Chính vì thế, để bảo đảm quyền lợi chính đáng cho người dân, thực hành dân chủ thực sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các cơ quan nhà nước; cán bộ, công chức nhà nước, “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”20.

Xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh là một xã hội mới công bằng, tốt đẹp với những mục tiêu, tiêu chí rất cụ thể bắt đầu từ việc bảo đảm đời sống của Nhân dân, “làm sao cho nhân dân được đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ…, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt”21. Với tư cách là người đứng đầu Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cam kết trước dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”22.

Xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không chỉ là những mong ước mà nó phải được bảo đảm trên cơ sở xây dựng Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Trước hết, cần quan tâm đến đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo chính quy, có hiểu cao về pháp luật, có kỹ năng nghiệp vụ quản lý hành chính thành thạo trên các lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau. Có như vậy mới có thể phục vụ nhân dân tốt hơn và bảo đảm được sự phát triển mạnh mẽ của nền dân chủ mà chúng ta đang xây dựng là nhà nước phục vụ quyền và lợi ích chính đáng của người dân. 

3. Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trên các lĩnh vực xã hội trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay 

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã nhận thức rõ hơn vấn đề coi sự phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm, trong đó xây dựng văn hóa con người làm nền tảng tinh thần. Do vậy, cần “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc”23.

Những thành tựu to lớn trong thời kỳ đổi mới khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn là phù hợp và đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Thực tiễn của thời kỳ đổi mới minh chứng cho việc tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với ổn định chính trị, tiến bộ và công bằng xã hội. 

Trong quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam vừa phải đối mặt với việc tránh tụt hậu xa về kinh tế so với các nước, đồng thời vừa phải lo tránh chệch hướng xã hội chủ nghĩa về chính trị, suy thoái về đạo đức và lối sống. Trước đòi hỏi đó, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong các lĩnh vực xã hội và tiếp tục quán triệt những vấn đề sau: 

Một là, phát triển đồng bộ, toàn diện các mặt của đời sống xã hội chính là sự nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với các hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp, hiệu quả hơn. Công cuộc đổi mới cần tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ, từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, trước hết là kinh tế. Đổi mới chính trị phải bắt đầu từ đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến các hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Những sự đổi mới này phải có trọng tâm, trọng điểm, bước đi, lộ trình và hình thức phù hợp, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, bảo đảm dân chủ, công bằng, tiến bộ và văn minh.

Phát triển toàn diện các mặt của đời sống xã hội phải luôn quán triệt quan điểm “Nhân dân là trung tâm”, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân theo tinh thần “phải đem hết sức dân, tài dân, của dân làm lợi cho dân”24. Từ “Kinh nghiệm trong nước và quốc tế cho thấy: có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”25. Vận dụng, kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc rút ra quy luật: “Từ trước đến nay, bất cứ việc gì đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, của toàn Đảng, được nhân dân và toàn Đảng đồng lòng, góp sức thì nhất định thắng lợi”26 cả trong thời kỳ cách mạng giành chính quyền và xây dựng chính quyền xã hội chủ nghĩa. 

Ý kiến, nguyện vọng, đòi hỏi và sáng kiến của Nhân dân nảy sinh từ thực tiễn chính là nguồn gốc hình thành đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Dựa vào dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân để tiến hành tổng kết, đúc rút các vấn đề có tính quy luật trên các lĩnh vực xã hội để tiếp tục đi lên, đó là chìa khóa của sự thành công. Thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả trong thực tế dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, dân chủ ở cơ sở theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”27

Hai là, luôn coi trọng giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Do hoàn cảnh chiến tranh buộc phải dành nhiều tâm lực, trí lực lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn nhấn mạnh đến yêu cầu phải có một nền kinh tế vững mạnh làm cơ sở cho giải quyết các vấn đề trên lĩnh vực xã hội. Phát triển xã hội theo hướng nhân văn, lấy con người làm trung tâm, xem phát triển con người – cả cá nhân và cộng đồng – vừa là mục tiêu cao nhất vừa là động lực to lớn nhất của tiến trình đổi mới ở nước ta. 

Phát triển xã hội đòi hỏi phải đáp ứng ngày một tốt hơn những nhu cầu cơ bản trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Trước hết, đó là những nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại, phòng chữa bệnh, xây dựng gia đình, nuôi dạy con cái… bảo đảm cho con người có thể sống như những sinh thể cấu thành xã hội. Những nhu cầu nêu trên không thể tự thỏa mãn mà phải thông qua lao động sản xuất của chính con người để tạo ra của cải vật chất. Tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, do đó có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Song, suy đến cùng, sản xuất kinh tế chỉ là phương tiện chứ không phải là cứu cánh, là mục đích tự thân của phát triển xã hội.

Chính vì vậy, những nội dung về phát triển xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: phát triển kinh tế lấy con người làm trung tâm cho sự phát triển, “dân làm chủ”, “mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở nơi dân”; phát triển kinh tế để bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thụ các giá trị phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo: “Dân giàu nước mạnh”, từng bước xóa bỏ bất công, xóa bỏ bóc lột… trên cơ sở phát triển sản xuất, dần dần “biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại”, nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến; gắn phát triển kinh tế với chính sách xã hội, với công bằng xã hội, “các dân tộc miền núi tiến kịp các dân tộc miền xuôi”. Đây cũng chính là những nội dung lớn và mục tiêu mà Việt Nam đang hướng tới trong chiến lược phát triển bền vững trong thời kỳ đổi mới.

4. Kết luận

Xây dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài, góp phần củng cố địa vị, phát huy vai trò của Nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”28; “Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa29.

Chú thích:
1, 13. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 10. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 453, 378.
2, 4, 24, 25. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật,  tr. 502, 301, 75, 335. 
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 12. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 510.
5. Đặng Văn Luận. Quan điểm mới của Đảng về hạnh phúc của nhân dân trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Quản lý nhà nước, số 315, tr. 8.
6. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 325.
7. Hồ Chí Minh (1981). Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. H. NXB Văn học, tr. 517.
8, 15, 17, 22. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 9. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 592, 154, 518, 518.
9, 11, 12, 19, 20. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 2, 7, 7, 64, 64 – 65.
10. Tuổi trẻ cần tu dưỡng, học tập và làm theo tấm gương Bác Hồ. https://dangcongsan.vn/xay-dung-chinh-don-dang-nhung-viec-can-lam-ngay/hoc-va-lam-theo-bac/tuoi-tre-can-tu-duong-hoc-tap-va-lam-theo-tam-guong-bac-ho-653161.html, truy cập ngày 24/11/2024.
14. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 154.
16, 21. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 13. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật,  tr. 438, 438.
18. Hồ Chí Minh toàn tập (2011). Tập 2. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 292.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. H. Văn phòng Trung ương Đảng, tr. 9.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999). Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII). H. NXB Chính trị quốc gia, tr. 61.
27, 29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIITập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 27, 111 – 112.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 70.