Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm ở Việt Nam

Ban Chấp hành Trung ương Đảng thảo luận về dự thảo Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 (nguồn: http://baochinhphu.vn/).     

(QLNN) – Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu phát triển tổng quát trong giai đoạn 2016 – 2020 là: Đẩy mạnh toàn diện đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại1. Để tiếp tục thực hiện tốt mục tiêu này, trong những năm tới, phải gắn phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển bao trùm.

Về phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm

Trên thế giới, từ năm 2000, năm bản lề khi nhân loại bước sang thiên niên kỷ thứ 3, các quan điểm về phát triển bền vững của Liên hiệp quốc (LHQ) bắt đầu được mở rộng và mang tính bao trùm hơn.  Phát triển bao trùm là kết nối phát triển kinh tế, tài chính và phát triển xã hội nhằm bảo đảm thuận lợi cho sinh kế của người dân, không để ai ở lại phía sau.

Phương hướng phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm được thể hiện tập trung trong Chương trình phát triển thiên niên kỷ của LHQ giai đoạn 2001 – 2015 gồm 8 mục tiêu: (1) Xóa cực nghèo và đói; (2) Đạt phổ cập giáo dục tiểu học; (3) Thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao quyền của phụ nữ; (4) Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; (5) Nâng cao sức khỏe cho bà mẹ; (6) Chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác; (7) Bảo đảm sự bền vững về môi trường; (8) Phát triển mối quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển.

Các phương hướng kể trên còn được thể hiện trong Chương trình nghị sự phát triển bền vững của LHQ trong 15 năm (2016 – 2030) gồm 17 mục tiêu với 169 chỉ tiêu cụ thể, trong đó nhấn mạnh tới các mục tiêu: kết thúc đói nghèo; cải thiện sức khỏe và giáo dục; bình đẳng giới; chống biến đổi khí hậu; thúc đẩy xã hội hòa bình và đem lại sức sống mới cho quan hệ đối tác toàn cầu để phát triển bền vững,…

Việt Nam là một trong những quốc gia đã thực hiện khá thành công Chương trình phát triển thiên niên kỷ giai đoạn 2001 – 2015 và đang triển khai thực hiện Chương trình phát triển bền vững giai đoạn 2016 – 2030. Ở nước ta, phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm có những nội hàm cơ bản sau:

Thứ nhất, về kinh tế: bảo đảm cơ hội được chia sẻ một cách bình đẳng và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân thực hiện quyền sử dụng hợp pháp, hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động sinh kế. Mục đích là không tập trung mang lại lợi nhuận cho thiểu số, không để ai ở lại phía sau mà tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người dân trong giới hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.

Thứ hai, về xã hội: được đánh giá bằng các tiêu chí, như: bảo đảm đời sống xã hội hài hòa giữa xã hội dân chủ với kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội; bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không quá cao và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn. Mục đích là bảo đảm công bằng xã hội và phát triển con người theo chỉ số phát triển con người (HDI) bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa nhằm phát triển bền vững con người và các thế hệ người của mỗi dân tộc, chủng tộc. Đây là tiêu chí cao nhất và xuyên suốt quá trình phát triển bền vững gắn với phát triển bao trùm về kinh tế, xã hội và môi trường.

Thứ ba, về môi trường: chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm thông qua sự trong sạch về không khí, nước, đất, tài nguyên trong đất, không gian địa lý, cảnh quan tự nhiên. Chất lượng của các yếu tố này luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, phát triển du lịch. Bởi vì, các quá trình này đều làm biến động môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến điều kiện tự nhiên và môi trường sống của con người.

Tình hình phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm ở Việt Nam trong những năm gần đây

Việt Nam đã thực hiện Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 nhằm mục tiêu phát triển bền vững gắn với phát triển bao trùm thông qua việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

Cho đến nay, quá trình triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững  giai đoạn 2011 – 2020 đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, song cũng đặt ra những thách thức trong việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm trong những năm tới, cụ thể:

Thành tựu

– Về kinh tế: tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 8 năm (2011 – 2018) đạt gần 6,5%. Riêng trong năm 2018: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,08%; chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 11,4%; quy mô nền kinh tế đạt trên 240 tỷ USD; GDP bình quân đầu người đạt 2.587 USD (2018)2. Cơ cấu kinh tế có những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng; khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP ngày càng giảm; an ninh lương thực được bảo đảm. Việt Nam đã duy trì được mức tăng trưởng khá cao trong thời gian dài, tăng trưởng đi đôi với thành tích ấn tượng về xóa đói, giảm nghèo và góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm ở các lĩnh vực khác.

– Về xã hội: sự nghiệp giáo dục có bước phát triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách. Từ năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm. Trong năm 2018, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi là 2%, trong đó khu vực thành thị là 2,95%, khu vực nông thôn là 1,55%. Bất bình đẳng theo thước đo hệ số GINI (hệ số bất bình đẳng thu nhập) về tiêu dùng tăng, nhưng ở mức tương đối thấp trong khu vực Đông Nam Á 3. Việt Nam được đánh giá là nước hoàn thành nhiều (6/8) nhóm mục tiêu thiên niên kỷ. Trong năm 2018, tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều ước tính 6,8% 4. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam trong năm 2017 là 0,694, đang thuộc nhóm trung bình cao trong tổng số 189 quốc gia 5.

– Về môi trường: đã coi trọng hơn việc bảo vệ tài nguyên, môi trường. Bằng những chính sách hợp lý với các giải pháp cụ thể, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước, không khí đã được các địa phương, các ngành cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng có giảm.

Hạn chế

Bình quân giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt khoảng 5,91%, mặc dù thấp hơn so với giai đoạn 2006 – 2010, nhưng đặt trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiếu khó khăn, thách thức và kinh tế thế giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi 6. Đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế, hệ số sử dụng vốn (ICOR) cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.

Hiện nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm gần 14% GDP nhưng 70% dân số sống ở nông thôn. Riêng khu vực phi chính thức (những người bán hàng rong, kinh doanh nhỏ lẻ tự phát) có số lượng lao động lớn với 11 triệu việc làm trong tổng số khoảng 50 triệu lao động; vấp phải nhiều khó khăn, thách thức cho việc gắn phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển bao trùm không chỉ ở khu vực này. Quá trình cải thiện HDI trong ba thập kỷ qua lại diễn ra không đồng đều và đang có chiều hướng chững lại 7.

Như vậy, phát triển bao trùm ở Việt Nam có tính không bền vững, nhất là chưa kết nối được giữa sự chia sẻ các thành tựu tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội và môi trường, mà biểu hiện là bất bình đẳng về cơ hội tham gia, sự gia tăng tình trạng chênh lệch giàu nghèo và chưa cải thiện được nhiều hiện tượng ô nhiễm môi trường.

Phương hướng tăng cường gắn kết phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển bao trùm trong những năm tới

Phát triển kinh tế  nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong những năm tới, có thể thực hiện các phương hướng sau đây nhằm tăng cường gắn kết phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển bao trùm.

Một là, về phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với phát triển bao trùm.

Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng nhanh nhưng có hiệu quả cao, không chấp nhận sự tăng trưởng bằng mọi giá. Trong đó, chú trọng bảo đảm thực hiện những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế (GDP bình quân đầu người, tỷ trọng giá trị gia tăng công nghiệp chế tạo và công nghiệp thông tin, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ lớn trong cơ cấu kinh tế, tỷ trọng nông nghiệp công nghệ cao, tỷ lệ đô thị hóa,…). Trong điều kiện hiện nay, các nước đang phát triển như Việt Nam cần đạt mức tăng trưởng GDP ít nhất phải trên 5%/năm thì mới có thể xem là có biểu hiện phát triển nhanh, bền vững về kinh tế.

Do đó, phải tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, cơ bản theo hướng chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước trên cơ sở phát huy vai trò quyết định của nội lực; đồng thời, thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, nhất là vai trò động lực của doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và khu vực sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ nền kinh tế trên cơ sở kinh tế vùng, liên vùng và coi trọng phát triển mạnh kinh tế biển; trong đó tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động các khu vực kinh tế ven biển.

Thông qua đó, xác lập mô hình tăng trưởng có thể kết hợp hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế; giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Muốn vậy, phải tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại, văn minh, từng bước thực hiện việc bảo đảm lợi ích của đại đa số nhân dân; đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, tính công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp.

Hai là, phát triển bền vững về xã hội gắn với phát triển bao trùm.

Phát triển bền vững về xã hội theo hướng tăng cường kết nối phát triển văn hóa – xã hội  với phát triển con người một cách bền vững nhằm tạo lập nền tảng xã hội bền vững, đáp ứng tốt yêu cầu gắn kết khăng khít giữa phát triển kinh tế nhanh, bền vững với phát triển bao trùm. Phương hướng trọng tâm triển khai, thực hiện là: bảo đảm ổn định và bền vững về dân số (nhất là tỷ lệ sinh và cân bằng giới tính,…); nâng cao học vấn gắn với công tác đào tạo nghề; đẩy mạnh giảm nghèo theo hướng gắn với tạo việc làm bền vững; xây dựng, phát triển nông thôn mới để giảm sức ép di dân vào đô thị; giảm thiểu tác động xấu của biến đổi khí hậu và môi trường; bảo vệ đa dạng văn hóa; bảo đảm bình đẳng giới, quan hệ tộc người; tăng cường sự tham gia của người dân vào các quá trình ra quyết định trong mối quan hệ hài hòa giữa kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân chủ. Trong đó, coi trọng thực hiện những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội (chỉ số phát triển con người, tuổi thọ bình quân, chỉ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, số bác sỹ trên 1 vạn dân, tỷ lệ lao động qua đào tạo,…) và những tiêu chí phản ánh trình độ phát triển về môi trường (tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch, độ che phủ rừng, tỷ lệ giảm mức phát thải khí nhà kính,…).

Thực hiện phát triển bền vững về xã hội, theo đó, tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển theo hướng: Nhà nước tập trung vào tạo lập kết cấu hạ tầng xã hội đầy đủ và thuận lợi để phục vụ nhu cầu của người dân và yêu cầu phát triển của xã hội. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống và giảm rõ rệt tệ nạn và tội phạm xã hội; hoàn thiện, phát huy dân chủ XHCN nhằm bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đặc biệt trong việc thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực nhà nước một cách hiệu quả. Không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội trên cơ sở tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Ba là, phát triển bền vững về môi trường gắn với phát triển bao trùm.

Cần phải đạt các chỉ tiêu cơ bản: chỉ tiêu tổng hợp (GDP xanh, chỉ số phát triển con người, chỉ số bền vững môi trường); chỉ tiêu về kinh tế (hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, năng suất lao động xã hội, mức giảm tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị GDP, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân vãng lai…); chỉ tiêu về xã hội (tỷ lệ nghèo, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lao động đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo, tỷ số giới tính khi sinh, hệ số bất bình đẳng trong phân phối thu nhập…); chỉ tiêu về tài nguyên, môi trường (tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ đất được bảo vệ, diện tích đất bị thoái hóa,…).

Do đó, cần triển khai, thực hiện các nhiệm vụ sau: (1) Sử dụng có hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo gắn với bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm, bảo vệ đa dạng sinh học; đồng thời, kiểm soát và giảm thiểu phát thải khí nhà kính; (2) Phát triển nhanh nhưng không vượt quá ngưỡng chịu tải của hệ sinh thái; (3) Giảm thiểu xả thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực, thực phẩm) và cải thiện, khôi phục môi trường những khu vực bị ô nhiễm…

Chú thích:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr. 76.
2. Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 đạt 2.587 USD. http://vneconomy.vn, ngày 27/12/2018.
3. Phát triển bền vững ở Việt Nam: Tiêu chí đánh giá và định hướng phát triển. http:// sis.vnu.edu.vn, ngày 08/01/2019.
4. Tổng cục Thống kê. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội năm 2018 so với năm 2017. http://www.nhandan.com.vn, ngày 01/01/2019.
5, 7. Chỉ số phát triển con người: Chiều hướng tăng đang chững lại. http://tiasang.com.vn, ngày 06/01/2019.
6. Trần Thu Thủy. Phát triển kinh tế giai đoạn 2011 – 2015 và định hướng 2016 – 2020. http://tapchitaichinh.vn, ngày 07/4/2016.
Tài liệu tham khảo:
1. Quyết định số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.
2. Nguyễn Quang Thái, Ngô Thắng Lợi. Phát triển bền vững ở Việt Nam: Thành tựu, cơ hội, thách thức và triển vọng. H. NXB Lao động – xã hội, 2007.
3. Trần Ngọc Ngoạn. Một số vấn đề lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế trong phát triển bền vững nông thôn. Tạp chí Nghiên cứu Phát triển bền vững, N2-2007.
4. Phát triển bền vững ở Việt Nam. http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 03/01/2014.
ThS. Nguyễn Thị Loan Anh
 Trường Đại học Văn hóa Hà Nội