(QLNN) – Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước đã khẳng định: “Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế, để doanh nghiệp nhà nước giữ vững vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Bài viết tập trung vào thực trạng vấn đề đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện nay và các giải pháp trọng tâm nhằm đẩy mạnh công tác này.
Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 707/QĐ-TTg ngày 25/5/2017 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2016 – 2020” để làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương phê duyệt và triển khai thực hiện phương án cơ cấu lại từng DNNN và doanh nghiệp (DN) có vốn nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý giai đoạn 2016 – 2020.
Tại Nghị quyết số 12-NQ/TW, vai trò của DNNN đối với nền kinh tế tiếp tục được khẳng định. Theo đó, DNNN “là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”1. Đồng thời, là công cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước (NSNN); thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Do đó, nhiệm vụ cổ phần hóa (CPH), thoái vốn đối với DNNN vẫn được xem là nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện tái cơ cấu DNNN, duy trì nâng cao hoạt động của DNNN… Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN càng được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi quyết tâm cao và các giải pháp quyết liệt, đột phá hơn để hoàn thành mục tiêu đề ra.
Ngay sau khi Nghị quyết số 12-NQ/CP ra đời, ngày 03/02/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/CP về thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN. Với việc thành lập và đưa Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN đi vào hoạt động, bước đầu đã thực hiện tách chức năng quản lý nhà nước và chức năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại DNNN. Đến nay, việc chuyển 19 tập đoàn, tổng công ty (TCT) từ các bộ về Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN đã hoàn tất.
Đổi mới DNNN theo cơ chế thị trường là quá trình thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý
Theo đó, cần “tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém”2.
Thực hiện quan điểm trên, cơ chế, chính sách về CPH DNNN tiếp tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhằm tạo cơ sở pháp lý để đẩy nhanh tiến độ CPH, thoái vốn và hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình CPH, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bán cổ phần và thu hút được các nhà đầu tư có tiềm năng.
Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ đã ban hành 13 nghị định, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 2 quyết định và 1 công văn chỉ đạo từ tiêu chí, danh mục phân loại DNNN đến trình tự CPH, thoái vốn, phương pháp định giá, cơ chế đấu giá bán ra thị trường, chế độ, chính sách đối với người lao động…, trong đó cơ chế CPH DNNN và thoái vốn nhà nước tại DN được đặc biệt chú trọng, bảo đảm nguyên tắc đúng pháp luật, theo thị trường và công khai, minh bạch3.
Trên cơ sở đó, đã thực hiện CPH thành công nhiều tập đoàn kinh tế (TĐKT), TCT nhà nước, nhiều DNNN quy mô lớn, như: TCT Máy và Thiết bị công nghiệp; TCT Máy động lực và Máy nông nghiệp Việt Nam; TCT Lâm nghiệp Việt Nam; Tập đoàn Cao su Việt Nam; TCT Lương thực miền Nam; TCT Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp; TCT Đầu tư và phát triển công nghiệp – Becamex; TCT Thương mại Hà Nội… Bên cạnh đó, phương thức CPH được thay đổi, đã thực hiện CPH toàn bộ tập đoàn, TCT thay vì CPH từng đơn vị con thuộc tập đoàn, TCT như trước đây.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2016, đã CPH 66 DN với tổng giá trị DN là 40.206 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 27.328 tỷ đồng. Năm 2017, CPH 69 DN với tổng giá trị DN là 365.953 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 160.156 tỷ đồng. Trong 11 tháng đầu năm 2018 đã CPH 12 DN với tổng giá trị DN là 29.747 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 15.413 tỷ đồng.
Về kế hoạch thoái vốn đối với các DN, từ năm 2016 – tháng 11/2018, các DN cả nước đã thoái được 17.826 tỷ đồng, thu về 155.735 tỷ đồng, trong đó: năm 2016 thoái được 3.645 tỷ đồng, thu về 6.839 tỷ đồng; năm 2017 thoái được 9.046 tỷ đồng, thu về 138.327 tỷ đồng; 11 tháng đầu năm 2018 thoái được 5.067 tỷ đồng, thu về 10.499 tỷ đồng4.
Tổng nguồn thu từ CPH, thoái vốn (bao gồm thoái vốn nhà nước và thoái vốn tại các tập đoàn, TCT, DNNN) trong giai đoạn từ 2016 đến nay đạt khoảng 206.720 tỷ đồng, trong đó: năm 2016: 30.000 tỷ đồng; năm 2017: 144.577 tỷ đồng; 11 tháng đầu năm 2018: 32.143 tỷ đồng5.
Nhiều DN sau CPH thu hút thêm lao động có kỹ thuật; đa số người lao động trong DN CPH được tiếp tục làm việc, được đào tạo lại để nâng cao trình độ. Về cơ bản, các DNNN sau CPH đều sản xuất – kinh doanh có hiệu quả, nộp ngân sách và thu nhập của người lao động được nâng lên.
Vai trò của TCT Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) tiếp tục được phát huy trong việc hỗ trợ quá trình CPH, tiếp nhận và xử lý nợ của các DN cổ phần; là tổ chức chuyên nghiệp trong thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DN sau CPH theo đúng định hướng chỉ đạo của Đảng và Chính phủ.
Nguồn thu từ quá trình CPH, thoái vốn nhà nước được tập trung vào Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN để sử dụng theo quy định và nộp vào NSNN theo Nghị quyết của Quốc hội. Từ năm 2016 đến ngày 18/11/2018, đã chuyển 135.000 tỷ đồng từ Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển DN vào NSNN6.
Đánh giá về kết quả CPH, thoái vốn thời gian qua, Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển DN chỉ ra nhiều kết quả tích cực đáng ghi nhận khi DNNN đã giảm mạnh về số lượng (từ năm 2016 đến tháng 11/2018, cả nước đã CPH được 147 DN); giá trị thực hiện giai đoạn 2016 – 2018 gấp 2,5 lần thực hiện giai đoạn 2011 – 2015, hiệu quả hoạt động của DNNN tiếp tục tăng lên. Năm 2017, tổng tài sản các DN tăng 3%, vốn chủ sở hữu tăng 4%, lợi nhuận trước thuế tăng 4%, nộp NSNN tăng 5% so với năm 2016… Trong 8 tháng đầu năm 2018, doanh thu, lợi nhuận của các DNNN đều đạt trên 70% kế hoạch cả năm…7.
Những hạn chế của quá trình đổi mới DNNN thời gian qua
Theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương gửi về Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 11/2018, mới có 35/526 DNNN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại.
Đặc biệt, theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì năm 2018 phải hoàn thành CPH ít nhất 85 DN, trong đó có 21 DN thuộc danh mục năm 2017, tuy nhiên, đến ngày 18/11/2018 mới CPH được 12 DN. Khi thực hiện bán cổ phần lần đầu, một số DN có tỷ lệ bán còn rất thấp so với phương án đã duyệt8.
Về kế hoạch thoái vốn, theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg ngày 17/8/2017 của Thủ tướng Chính phủ thì năm 2017 có 135 DN, năm 2018 có 181 DN phải thực hiện thoái vốn, tuy nhiên, lũy kế đến tháng 11/2018 mới chỉ có 31 đơn vị thực hiện thoái vốn theo kế hoạch (năm 2017 có 13 đơn vị thực hiện thoái vốn; 11 tháng đầu năm 2018 có 18 đơn vị thực hiện thoái vốn)9.
Bên cạnh đó, một số cơ chế, chính sách ban hành chậm so với kế hoạch đề ra; việc xây dựng và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật trước khi quyết định CPH DN chưa đúng tiến độ. Hiệu quả sản xuất – kinh doanh và đóng góp của một số DNNN còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; một số dự án của DNNN còn thua lỗ, thất thoát vốn lớn (12 dự án của ngành Công Thương).
Cơ chế quản trị DNNN chậm được đổi mới, chưa phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế. Việc thực hiện cơ chế xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi xảy ra sai phạm cũng như việc xử lý các hành vi vi phạm về giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động đối với DNNN chưa đầy đủ, nghiêm túc. Một số bộ, ngành, địa phương chưa quyết liệt thực hiện việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các DN sau CPH về TCT Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và chỉ đạo người đại diện tại các DN đã CPH đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán…
Theo thống kê, lũy kế từ ngày 01/01/2017 đến tháng 11/2018, các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố mới hoàn thành chuyển giao về SCIC 27/62 DN với tổng vốn nhà nước là 960 tỷ đồng trên tổng vốn điều lệ là 2.381 tỷ đồng. Số DN chưa chuyển giao gồm 35 DN với tổng số vốn nhà nước là 10.107 tỷ đồng trên tổng số vốn điều lệ là 14.706 tỷ đồng10.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, trong đó nguyên nhân chủ yếu do nhiều DN CPH, thoái vốn ở giai đoạn này là DN có quy mô lớn, phức tạp về tài chính, phạm vi hoạt động rộng nên việc xác định giá trị DN gặp nhiều khó khăn, thời gian kéo dài. Mặt khác, vẫn còn tình trạng lợi ích nhóm, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cơ cấu lại, CPH, thoái vốn DN, gây bức xúc dư luận.
Nhận thức về chủ trương CPH, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN của một số lãnh đạo đơn vị còn chưa quyết liệt; kỷ luật chấp hành chỉ đạo của cấp trên, của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chưa được thực hiện nghiêm; còn tư tưởng e ngại, nhận thức chưa rõ trong vấn đề đổi mới khi CPH, thoái vốn; tâm lý sợ mất vị trí, vai trò sau CPH, thoái vốn, tư tưởng yên vị đã và đang kìm hãm tiến độ đổi mới…
Mục tiêu đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN được Nghị quyết số 12-NQ/TW xác định:
Tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN được Nghị quyết số 12-NQ/TW xác định cụ thể: “Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2017 – 2020 trên cơ sở các tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc các ngành, lĩnh vực. Phấn đấu hoàn thành thoái vốn tại các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, tham gia góp vốn. Tập trung xử lý dứt điểm các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các dự án, công trình đầu tư của doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài.
Phấn đấu đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp; nâng cao một bước quan trọng hiệu quả sản xuất – kinh doanh, chất lượng sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước. Hoàn thiện mô hình quản lý, giám sát doanh nghiệp nhà nước và vốn, tài sản của Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp”.
Để hoàn thành các mục tiêu trên, ngày 05/01/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg về việc tăng cường công tác chỉ đạo, đẩy mạnh công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, CPH và thoái vốn nhà nước tại DNNN và DN có vốn nhà nước, theo đó, tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN và DN có vốn nhà nước. Trong năm 2019 và 2020, các bộ: Tài chính; Kế hoạch và Đầu tư; Nội vụ; Tư pháp; Lao động – Thương binh và Xã hội cần hoàn thành việc rà soát, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành các luật sửa đổi, bổ sung liên quan đến DNNN như: Luật DN; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN; Luật Cán bộ, công chức; Luật Phá sản; Bộ luật Lao động.
Thứ hai, các bộ, ngành, địa phương, TĐKT, TCT nhà nước cần hoàn thành việc phê duyệt hoặc trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cơ cấu lại các DN thuộc lĩnh vực quản lý theo đúng quy định tại Quyết định số 707/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong đó nêu rõ tiến độ, cơ quan tổ chức thực hiện, người chịu trách nhiệm.
Gắn kết quả việc thực hiện sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN với việc đánh giá trách nhiệm của người đứng đầu; tiếp tục đổi mới công tác bố trí bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với người đứng đầu DNNN. Người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương chịu trách nhiệm đôn đốc, triển khai thực hiện đúng tiêu chí phân loại DNNN, DN có vốn nhà nước và Danh mục DNNN thực hiện sắp xếp giai đoạn 2016 – 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Thứ ba, các DNNN thuộc diện CPH cần khẩn trương rà soát toàn bộ quỹ đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật, trình Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ý kiến về phương án và giá đất để cấp có thẩm quyền phê duyệt trước khi tổ chức xác định giá trị DN CPH theo đúng quy định tại Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 và Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ.
Thứ tư, cơ quan đại diện chủ sở hữu chỉ đạo người đại diện phần vốn nhà nước đôn đốc các DN đã CPH thực hiện nghiêm việc đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật. Thực hiện đúng thời gian việc bàn giao các DN thuộc diện phải bàn giao về SCIC theo quy định hiện hành.
Hội đồng thành viên, Chủ tịch, Ban lãnh đạo các TĐKT, TCT nhà nước, DNNN cần xây dựng, triển khai phương án cơ cấu lại DNNN trên toàn bộ các lĩnh vực; thực hiện công khai, minh bạch trong đầu tư, quản lý tài chính, mua sắm, phân phối thu nhập, công tác cán bộ; trong ký kết và thực hiện các hợp đồng với những người có liên quan đến người quản lý DN theo quy định của pháp luật.
Công ty mẹ – TĐKT/TCT nhà nước phải tổ chức giám sát, kiểm tra thường xuyên, thanh tra định kỳ việc chấp hành pháp luật, thực hiện mục tiêu, chiến lược, kế hoạch, nhiệm vụ được giao, đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty con, cán bộ quản lý. Nắm bắt đầy đủ thông tin về hoạt động của các công ty liên kết, thông qua người đại diện là cổ đông tham gia vào các quyết định của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, phát huy vai trò của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN trong việc thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 19 DNNN đã tiếp nhận theo Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/9/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại DN.
Kiên quyết xử lý dứt điểm các DNNN, các dự án đầu tư chậm tiến độ, hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả theo cơ chế thị trường; xem xét, thực hiện phá sản DNNN theo quy định của pháp luật; thực hiện cơ cấu lại và chuyển nhượng dự án cho nhà đầu tư thuộc thành phần kinh tế khác. Làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng DNNN, dự án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm toán, không để xảy ra thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình sắp xếp, CPH, thoái vốn và quản lý, sử dụng vốn nhà nước. Bổ sung nội dung kiểm tra, thanh tra trách nhiệm người đứng đầu đơn vị trong việc chấp hành kỷ luật hành chính khi thực hiện kế hoạch CPH và thoái vốn nhà nước tại DN; trách nhiệm người đứng đầu trong việc tổ chức, hoàn thành kế hoạch hoạt động sản xuất – kinh doanh hàng năm. Bổ sung danh mục thanh tra đối với các DN chậm quyết toán tại thời điểm chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. Định kỳ công bố công khai thông tin về CPH, thoái vốn DNNN làm cơ sở để theo dõi, đánh giá tiến độ CPH, thoái vốn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.