Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng qua hơn 30 năm đổi mới

(QLNN) – Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”1.  Thành tựu to lớn đó là công sức của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam có ý nghĩa quyết định, nhất là công tác xây dựng Đảng.
“Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực không phải lẻ mẻ từng vụ, từng việc mà bây giờ đã thành phong trào, thành một xu thế, làm có bài bản”, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại phiên họp thứ 12 của Ban Chỉ đạo ngày 31/7/ 2017 tại Hà Nội (Nguồn: https://news.zing.vn) 

1. Hơn ba thập kỷ đổi mới là giai đoạn lịch sử có ý nghĩa trọng đại trong sự nghiệp phát triển của đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có được thành tựu đó, không thể phủ nhận vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam. Vai trò đó được thể hiện cụ thể qua các phương diện sau:

Thứ nhất, Đảng ta đã tiến hành 4 cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện quyết tâm chính trị cao độ, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự là đạo đức, là văn minh gắn liền với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, về những vấn đề cơ bản và cấp bách đối với công tác xây dựng Đảng và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.

Qua hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên (CBĐV) và nhân dân được nâng lên, đã và đang tổ chức thực hiện nghiêm túc, có trọng tâm, trọng điểm, bước đầu đạt những kết quả đáng ghi nhận, góp phần giữ vững kỷ luật, kỷ cương, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Cũng sau 7 năm thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 về trách nhiệm nêu gương của CBĐV, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã nghiêm túc quán triệt và tổ chức thực hiện bằng những cách làm sáng tạo, tạo chuyển biến tích cực, tạo sự lan tỏa rộng rãi trong CBĐV và nhân dân,… Tinh thần, trách nhiệm nêu gương của CBĐV ngày càng được nâng cao, góp phần quan trọng cho công tác xây dựng Đảng, từng bước củng cố niềm tin của nhân dân đối với CBĐV và với sự lãnh đạo của Đảng.

Nhiều cấp ủy đã lãnh đạo các tổ chức trực thuộc xây dựng chuẩn mực đạo đức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, vừa là căn cứ để đánh giá CBĐV, vừa là tấm gương phản chiếu để CBĐV soi rọi, tự chấn chỉnh. Đặc biệt, để thực hiện nêu gương về trách nhiệm trong công tác, nhiều cấp ủy đã xây dựng quy chế, quy định cụ thể về trách nhiệm cá nhân, nhất là ở các lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, dễ xảy ra sai phạm và quy định xử lý trách nhiệm đối với cá nhân khi xảy ra sai phạm.

Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, đảng viên, kể cả cán bộ diện Trung ương quản lý được các cấp ủy đảng đẩy mạnh. Hơn 5 năm qua, việc xử lý kỷ luật nghiêm trong Đảng đã và đang tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Việc nêu cao tinh thần trách nhiệm trong xem xét, xử lý kỷ luật của Trung ương là động lực thúc đẩy quyết tâm của các cấp ủy, tổ chức đảng ở ban, bộ, ngành, ở các địa phương nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 9 (khóa XII), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Từ đầu nhiệm kỳ khóa 12 đến nay, trong vòng chưa đầy 3 năm, hơn 60 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý đã bị thi hành kỷ luật là con số chưa từng có, trong đó có 4 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng đương nhiệm và 3 đồng chí trong số đó đã bị đưa ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Tiếp tục tinh thần “không có vùng cấm”, không có ngoại lệ, năm 2018, đã xử lý nhiều cán bộ cấp cao, kể cả cán bộ nghỉ hưu, cán bộ trong các cơ quan bảo vệ, thực thi pháp luật, sĩ quan cấp tướng thuộc các lực lượng vũ trang, có những trường hợp bị tước các danh hiệu, xử lý hình sự”2.

Thứ hai, Đảng đã giữ vững chủ trương, đường lối phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng trên cơ sở đổi mới có nguyên tắc, luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển.

Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hơn 30 năm qua gắn liền với việc Đảng ta đã kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới khẳng định: “Ba mươi năm qua nói chung và mười năm gần đây nói riêng, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao, các thế lực thù địch tấn công toàn diện vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta luôn vững vàng, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định đường lối đổi mới, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”3.

Ðảng ta đã xác định đổi mới toàn diện, đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm trong từng giai đoạn; đặt đổi mới tư duy lên hàng đầu để mở đường và định hướng cho quá trình đổi mới; trong đó phát triển kinh tế là trung tâm và đi trước một bước; xây dựng Ðảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; lấy sự ổn định chính trị – xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp đổi mới và phát triển.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Với việc đề ra đường lối phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh đúng đắn, kịp thời, Đảng ta đã lãnh đạo đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi, kinh tế tăng trưởng khá. “Trong giai đoạn 2001- 2010, kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm”4. “Giai đoạn 2011 – 2015, tốc độ tăng GDP bình quân đạt trên 5,9%/năm”5. “GDP cả năm 2018 tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2008 trở về đây”6. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển.

Văn hóa – xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc, được quốc tế đánh giá cao; diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới.

Thứ tư, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa Hiến pháp, pháp luật một cách đồng bộ, tạo ra sự thống nhất, đồng thuận cao trong nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước ta đã 3 lần sửa đổi và ban hành Hiến pháp, sửa đổi và ban hành trên 150 bộ luật và luật, trên 70 pháp lệnh. Gần đây nhất, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 2013 và hàng loạt bộ luật để thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, cơ bản đã tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước quản lý và điều hành đất nước trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, thể hiện ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, khẳng định nguyên tắc bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường, khẳng định nguyên tắc mở cửa, hội nhập với khu vực và thế giới, hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do dân, vì dân và của dân. Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ đến nay, “Quốc hội đã ban hành 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 511 nghị định, 413 quyết định, riêng trong năm 2018, Quốc hội đã ban hành 16 luật, 7 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành 168 nghị định, 161 nghị quyết”7.

Thứ năm, Đảng đã kiên trì sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Hơn 30 năm qua, Đảng ta đã ban hành, tổ chức thực hiện nhiều nghị quyết về đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế, cải cách tiền lương. Theo đó, từng tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội từng bước được sắp xếp, kiện toàn; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh hợp lý hơn; góp phần bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ sáu, quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, đạo đức, đủ năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.

Đảng ta đã có nhiều quyết sách về cán bộ và công tác cán bộ, kiên trì, kiên quyết lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách, biện pháp. Qua đó, đội ngũ cán bộ các cấp đã có bước trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên; cơ cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp lý hơn. Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) khẳng định: “Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.

Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn, trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả”8.

Thứ bảy, chỉ đạo đẩy mạnh, triển khai đồng bộ công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán với điều tra, xử lý các vụ án tham nhũng, kinh tế; kỷ luật nghiêm minh nhiều CBĐV, tổ chức đảng vi phạm cả đương chức và nghỉ hưu, cả cán bộ cao cấp; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; kiên quyết loại bỏ những cán bộ hư hỏng, tham nhũng khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước. Tập trung chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.

Hội nghị cán bộ toàn quốc phổ biến, quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng (Nguồn: http://dangcongsan.vn).

2. Trong thời gian tới, để đáp ứng yêu cầu cách mạng, Đảng cần tập trung lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, thực hiện tốt một số nhiệm vụ chủ yếu sau:

Một là, nghiên cứu, tổng kết Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội; tổng kết việc thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở để đề ra và hoạch định đúng chủ trương, đường lối, chính sách phát triển đất nước, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Hiện nay, chúng ta đã chuẩn bị kết thúc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020, do vậy, chúng ta phải nhìn thẳng sự thật để “mổ xẻ” những gì được và chưa được, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm… của cả giai đoạn thực hiện Chiến lược 10 năm vừa qua, không chỉ cần có cái nhìn khách quan, toàn diện, mà còn phải xem xét kỹ bối cảnh thực hiện các nhiệm vụ chiến lược giai đoạn 2011 – 2020, đặc biệt là những vấn đề mới nảy sinh trong giai đoạn này mà trước đây chưa lường hết, nhưng lại có ảnh hưởng lớn tới việc thực hiện các mục tiêu chiến lược. Trên cơ sở đó, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021 – 2030 đang trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, cần hướng đến xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững và sáng tạo.

Cùng với đó là việc chuẩn bị tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (sau đây gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991). Bản Cương lĩnh đã phân tích nội dung, tính chất của thời đại, tổng kết quá trình cách mạng Việt Nam, kế thừa và phát triển những quan điểm cơ bản trước đó của Đảng để nêu ra quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, chỉ ra mục tiêu và những định hướng lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây là văn kiện quan trọng mang tầm định hướng chiến lược, là nền tảng tư tưởng lý luận và ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta, dân tộc ta trong giai đoạn mới.

Sau gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi hẳn bộ mặt và vị thế của đất nước. Những thành tựu đó khẳng định giá trị to lớn và sức sống mãnh liệt của Cương lĩnh năm 1991, đồng thời cho chúng ta thêm nhiều bài học quý để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên.

Thực tế, kể từ khi Cương lĩnh năm 1991 ra đời đến nay, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc. Nhiều vấn đề mới nảy sinh đã đặt ra yêu cầu Đảng cần đánh giá, phân tích và giải quyết có hiệu quả. Do đó, từ nội dung tính chất thời đại đến quá trình cách mạng, bài học kinh nghiệm của cách mạng nước ta; từ đặc điểm của thời kỳ quá độ đến đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; từ mục tiêu, nhiệm vụ đến phương hướng, giải pháp để từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,… ở những mức độ khác nhau đều cần có sự bổ sung, phát triển về nhận thức.

Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp theo mục tiệu Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, trọng tâm là phát huy trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Một tấm gương sống giá trị hơn trăm bài diễn văn tuyên truyền”9. Cán bộ có chức vụ càng cao, càng phải nêu gương, bởi cán bộ cấp cao là những người có tầm ảnh hưởng rộng và mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Một cán bộ bình thường là một tấm gương tốt chỉ tác động trong phạm vi hẹp; nhưng là cán bộ lãnh đạo thì phạm vi ảnh hưởng, tác động sẽ rộng, lớn hơn nhiều. Tương tự, cán bộ lãnh đạo cao cấp mà vi phạm khuyết điểm, nhất là vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước sẽ gây ảnh hưởng mạnh mẽ trong toàn xã hội.

Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề nêu trên càng trở nên cấp thiết, khi Đảng đã nhận định một bộ phận không nhỏ CBĐV, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống. Thậm chí, gần đây còn có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Cho nên, vấn đề trách nhiệm nêu gương không chỉ là nhiệm vụ mà còn là trách nhiệm của CBĐV. Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh: “Nếu gần 200 ủy viên Trung ương (khóa XII), từng đồng chí thật sự soi vào bản thân mình, đề cao trách nhiệm nêu gương và gương mẫu đi đầu thực hiện thì sẽ có sức lan tỏa rất lớn, sẽ tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị và Ban Bí thư”10.

Cùng với đó là chuẩn bị tốt nhân sự đại hội đảng các cấp và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Tiếp tục rà soát, bổ sung quy hoạch cấp ủy, các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý; sơ kết, tổng kết sự lãnh đạo của cấp ủy để xây dựng dự thảo báo cáo chính trị trình đại hội đảng các cấp. Đặc biệt, sự tích cực, khẩn trương của 5 tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng (Tiểu ban Văn kiện; Tiểu ban Kinh tế – Xã hội; Tiểu ban Điều lệ Đảng; Tiểu ban Nhân sự và Tiểu ban Tổ chức phục vụ Đại hội) có ý nghĩa rất quan trọng góp phần vào thành công của sự kiện chính trị quan trọng của đất nước trong năm tiếp theo.

Ba là, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ CBĐV, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo Đảng.

Tăng cường đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, “lợi ích nhóm” có hiệu quả; phòng ngừa, loại trừ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ trong Đảng ra và từ trên xuống. Kiên quyết, kiên trì xây dựng một cơ chế phòng ngừa không thể tham nhũng; một cơ chế trừng trị, răn đe để không dám tham nhũng; một cơ chế bảo đảm để không có tham nhũng. Điều này đã thực sự tạo nền tảng quan trọng để củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân.

Tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, tập trung vào các lĩnh vực có nhiều dư luận tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; khẩn trương kết luận thanh tra, xử lý nghiêm sai phạm đối với các dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, kéo dài, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Tập trung chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ án tham nhũng, kinh tế đã được khởi tố, điều tra; chú trọng phát hiện, xử lý các vụ án, vụ việc tham nhũng mới, nhất là tập trung xác minh, điều tra làm rõ yếu tố tư lợi, chiếm đoạt tài sản trong các vụ án, vụ việc.

Chú thích:
1, 5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. H. Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr. 65, 225.
2. Phát biểu bế mạc của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII). http://vietnamnet.vn, ngày 26/12/2018.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016). H. NXB Chính trị quốc gia, 2015, tr. 165 – 166.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. H. NXB Chính trị quốc gia, năm 2011, tr. 91.
5. Tổng cục Thống kê. Tình hình kinh tế – xã hội năm 2018. http://www.gso.vn, ngày 18/5/2018.
6. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Báo cáo kết quả hoạt động năm 2018 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2019.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII). H. Văn phòng Trung ương Đảng, 2018, tr. 45.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 284.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII). H. Văn phòng Trung ương Đảng, 2018, tr. 144 – 145.

PGS. TS. Đinh Ngọc Giang
ThS. Hà Văn Luyến
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh