(QLNN) – Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều xác định cải cách hành chính là một yêu cầu tất yếu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bảo đảm quyền dân chủ cũng như góp phần nâng cao chất lượng đời sống của người dân. Thời gian qua, quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả khả quan, nhưng vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thúc đẩy cải cách hành chính là yêu cầu tất yếu.
1. Trong những năm qua, xác định rõ vai trò của cải cách hành chính (CCHC), Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên chỉ đạo việc sơ kết, tổng kết quá trình triển khai chiến lược CCHC và nghiên cứu phương hướng, giải pháp CCHC theo những lộ trình phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Hoạt động CCHC được tiến hành một cách đồng bộ và đã đạt được những kết quả khả quan trên tất cả các mặt: cải cách thể chế hành chính, bộ máy hành chính, thủ tục hành chính (TTHC), nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC), cải cách tài chính công, áp dụng khoa học – công nghệ trong quản lý hành chính.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình CCHC ở Việt Nam:
Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng là một trong những yếu tố có tính chất quyết định đến quá trình CCHC ở nước ta. Thực hiện phương châm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, mọi chủ trương, chính sách của Đảng luôn có ý nghĩa quyết định đến chiến lược phát triển quốc gia, trong đó có công tác CCHC.
Trên thực tế, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, Đảng đều có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời đối với hoạt động CCHC nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính đã đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước (HCNN).
Theo đó, mục tiêu là xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân. Lần đầu tiên, 3 nội dung chủ yếu của CCHC được trình bày một cách hệ thống trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), đó là cải cách thể chế của nền hành chính, chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ CBCC. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong CCHC ở nước ta.
Với tinh thần đẩy mạnh CCHC được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), những năm qua, nhiều nghị quyết về CCHC đã được ban hành, biểu thị quyết tâm chính trị rất lớn trong việc tiếp tục tiến hành CCHC, đặt CCHC trong tổng thể của đổi mới hệ thống chính trị. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước (Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007) xác định: đẩy mạnh CCHC nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; xây dựng nền HCNN dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Nghị quyết cũng xác định rõ thực hiện CCHC phải đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến chất lượng xây dựng luật.
Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Để đạt được mục tiêu trên, Đảng đã đề ra nhiều chủ trương, đưa ra nhiều giải pháp quan trọng, trong đó CCHC được xem là một giải pháp then chốt.
Thứ hai, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) quy định về CCHC – đây là cơ sở pháp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động CCHC nhà nước ở Việt Nam. Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 về Chương trình tổng thể cải cách HCNN giai đoạn 2011 – 2020 với mục tiêu: xây dựng hệ thống các cơ quan HCNN từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan HCNN. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011 – 2020 cũng khẳng định CCHC là một trong ba khâu đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội.
Theo số liệu thống kê của Bộ Nội vụ, tính đến ngày 15/12/2018, các bộ, ngành Trung ương đã tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 213 VBQPPL (163 nghị định và 50 quyết định) để điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế, xã hội mới phát sinh, trong đó có nhiều văn bản quan trọng liên quan đến CCHC1. Nhờ đó, công tác CCHC đã đạt được những kết quả khả quan. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã tích cực, chủ động xây dựng kế hoạch triển khai, tập trung rà soát, kiện toàn, sắp xếp hệ thống tổ chức các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc. Bộ máy các cơ quan nhà nước được tinh giản, thu gọn đầu mối, đội ngũ CBCC hoạt động theo hướng chuyên sâu, được bố trí sắp xếp vào những vị trí phù hợp với chuyên môn, chuyên ngành đã được đào tạo, từ đó giúp nâng cao chất lượng hiệu quả công việc, tiết kiệm ngân sách nhà nước.
Thứ ba, sự phát triển và giao lưu, chia sẻ khoa học – công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới đã mang đến cho Việt Nam nhiều công nghệ mới có thể áp dụng vào hoạt động CCHC, làm cho quá trình CCHC trở nên hiệu quả và rút ngắn thời gian: thực hiện dịch vụ hành chính công trực tuyến cấp độ 1, 2, 3, 4; tiến hành đăng ký kinh doanh, kê khai thuế, làm thủ tục đăng ký cấp hộ chiếu qua mạng internet… Những cải cách này thể hiện rất rõ tính ưu việt khi có thể đồng thời phục vụ lượng khách hàng nhiều hơn, tiết kiệm thời gian và công sức cho nhân dân và doanh nghiệp (DN), quan trọng hơn là giảm tình trạng quá tải tại các cơ quan HCNN, hạn chế sự sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà của công chức nhà nước khi cung ứng các dịch vụ hành chính công. Các cơ quan HCNN có thể tổ chức hội nghị trực tuyến để triển khai công việc, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm…, qua đó giúp giảm thời gian, kinh phí cho ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, việc tin học hóa hoạt động quản lý HCNN cũng đặt ra yêu cầu phải nâng cao trình độ sử dụng tin học của đội ngũ CBCC; số lượng công chức tại một số bộ phận sẽ được tinh giản cho phù hợp; đồng thời, phải sắp xếp lại bộ máy, đổi mới phương pháp quản lý nhân sự để theo kịp những tiến bộ chung của thế giới.
Thứ tư, đội ngũ CBCC trong các cơ quan HCNN được xem là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình CCHC. Hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ CBCC trong các cơ quan HCNN là không chỉ vững vàng về trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực mình quản lý mà còn phải có kỹ năng nghề nghiệp, có đạo đức công vụ, có thái độ chuẩn mực, lịch sự khi tiếp xúc, giải quyết công việc cho nhân dân. Quá trình CCHC có được tiến hành một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời, hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ CBCC – những người trực tiếp thi hành nhiệm vụ, công vụ trong các cơ quan HCNN.
Những năm qua, cùng với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, công tác CCHC nhà nước đã đạt được những kết quả khả quan trên tất cả các mặt. Đặc biệt, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về TTHC, về cơ cấu tổ chức, bộ máy nhà nước, về đội ngũ CBCC, viên chức không ngừng được hoàn thiện. Các bộ, ngành trong cả nước cũng tham mưu cho Chính phủ hoặc tự ban hành các văn bản quy định về việc cắt giảm TTHC liên quan đến việc giải quyết công việc cho người dân và DN. Thời gian trả kết quả được giảm thiểu đến mức thấp nhất. Các bộ TTHC được tập hợp, sắp xếp, đăng tải công khai trên các trang thông tin điện tử của các bộ, ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp nhận và tìm hiểu.
Việc đơn giản hóa TTHC, cắt giảm điều kiện kinh doanh và cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành đã có những bước tiến rõ rệt, góp phần thúc đẩy tự do sáng tạo cho DN khởi nghiệp, tạo thuận lợi cho người dân. Trung tâm hành chính công được xây dựng và hoạt động có hiệu quả. Bộ máy cơ quan HCNN được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; từng bước xây dựng cơ cấu đội ngũ CBCC, viên chức một cách hợp lý. Đã triển khai xây dựng vị trí việc làm; đổi mới cơ chế, chính sách tuyển dụng, đánh giá, phân loại, bổ nhiệm, luân chuyển CBCC; quá trình thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ CBCC, viên chức được thực hiện công khai, dân chủ, tạo được sự đồng thuận của các cấp, các ngành…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác CCHC vẫn còn một số hạn chế. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của người đứng đầu một số cơ quan, đơn vị chưa chủ động và quyết liệt. Tiến độ xây dựng một số VBQPPL còn chậm do chất lượng chưa đạt yêu cầu, dẫn đến phải lùi thời điểm xem xét, phê duyệt. Một số địa phương công khai số liệu, kết quả giải quyết TTHC trên phần mềm còn chưa đúng so với kết quả kiểm tra thực tế. Một bộ phận CBCC còn chậm đổi mới về tư duy; trình độ tin học, ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu; thiếu tính chuyên nghiệp; sa sút về phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu chính đáng của người dân, DN…
2. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác CCHC, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức, tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCHC. Đảng không chỉ đề ra chủ trương, chính sách chỉ đạo đối với hoạt động CCHC mà còn cần tăng cường tập trung kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai các nội dung CCHC trên thực tế. Kinh nghiệm CCHC của các quốc gia trên thế giới cho thấy phải có quyết tâm và sự lãnh đạo quyết liệt từ cấp cao nhất của hệ thống chính trị thì CCHC mới có thể thành công.
Hai là, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao trong quan điểm và nhận thức của lãnh đạo các cấp, các ngành, CBCC từ trung ương tới địa phương về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của CCHC. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan HCNN trong việc triển khai hoạt động CCHC, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong công tác CCHC. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục cho CBCC về ý thức trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ CCHC. CCHC là khâu đột phá trong phát triển kinh tế – xã hội, vì vậy, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, mỗi cơ quan HCNN cần xác định rõ mục tiêu lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và DN làm cơ sở cho những quyết sách của mình với phương châm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch, công bằng.
Ba là, thường xuyên rà soát, kiến nghị, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật liên quan đến công tác CCHC, đến vấn đề hoàn thiện về cơ cấu tổ chức cơ quan HCNN theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cải cách TTHC, rút ngắn thời gian giải quyết yêu cầu của người dân và DN. Đặc biệt, trong quá trình xây dựng các thông tư hướng dẫn liên quan đến việc thực hiện TTHC trong lĩnh vực do các bộ, ngành quản lý, phải lấy ý kiến đóng góp của người dân và DN, bảo đảm không phát sinh các loại “giấy phép con” gây khó khăn, phiền hà cho DN. Lấy kết quả hoạt động CCHC làm tiêu chí đánh giá thi đua đối với các cơ quan, đơn vị.
Bốn là, xây dựng đội ngũ CBCC có chất lượng cao, theo đó, cần đổi mới từ khâu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Lãnh đạo các đơn vị tạo điều kiện cho CBCC tham gia các khoá đào tạo dài hạn, ngắn hạn, trong nước hoặc nước ngoài nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với CBCC trong quá trình thi hành công vụ, tránh hiện tượng vi phạm pháp luật, tiêu cực, tham nhũng. Quan tâm đến chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ CBCC, trước hết là chế độ lương, thưởng, tạo mọi điều kiện tốt nhất nhằm bảo đảm cho CBCC toàn tâm và có trách nhiệm với công việc; đồng thời, phải hoàn thiện hệ thống thể chế về công vụ, công chức, bảo đảm phân định rõ ràng về thẩm quyền, tính trách nhiệm đối với từng vị trí, chức danh.
Bên cạnh đó, mỗi CBCC phải tự học hỏi nâng cao trình độ ngoại ngữ, trình độ công nghệ thông tin để ứng dụng phục vụ công tác trong điều kiện hội nhập cũng như trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0. Đồng thời tự rèn luyện nhằm giữ vững bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, không chịu tác động bởi mặt trái cơ chế thị trường.
Năm là, xây dựng và nâng cao hoạt động của các Trung tâm hành chính công với đội ngũ công chức hoạt động chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ, các phần mềm hiện đại, kết nối liên thông để giải quyết các TTHC một cách nhanh chóng, thuận lợi cho việc quản lý; tiếp tục triển khai và nâng cao chất lượng, hiệu quả việc thực hiện cơ chế một cửa tại các sở, ngành địa phương. Nhằm giải quyết kịp thời các yêu cầu của nhân dân, CBCC, đặc biệt là CBCC ở địa phương, cơ sở cần duy trì “ngày thứ 7 vì dân”. Đối với các đơn vị vùng biên giới, hải đảo, lãnh đạo cần bố trí và phân công các tổ công tác đến tận bản, làng, xã biên giới, nơi đi lại khó khăn để giải quyết TTHC cho nhân dân.
Phát huy hiệu quả kênh thông tin tiếp nhận, phản ánh kiến nghị của người dân, DN trên Trang thông tin điện tử của các cơ quan, ban, ngành, kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho nhân dân. Thường xuyên tiến hành tổng kết hoạt động CCHC nhằm phát huy và nhân rộng những mô hình, cách làm hay, đồng thời chỉ ra những tồn tại, hạn chế, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động CCHC, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.
Sáu là, tăng cường hội nhập quốc tế. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho hội nhập trở thành một đòi hỏi khách quan. Theo đó, nội dung CCHC ở Việt Nam cũng phải có những thay đổi cho phù hợp với hoạt động hội nhập, hợp tác giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Hội nhập giúp Việt Nam có cơ hội đón nhận nguồn vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, khoa học – công nghệ… Song, cũng đặt ra những thách thức mới, đó là nền hành chính bắt buộc phải cải cách toàn diện để thích ứng với điều này: thể chế hành chính, đặc biệt là thể chế liên quan tới lĩnh vực đầu tư, thành lập DN, thuế… phải thay đổi cho phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
TTHC phải trở nên đơn giản và nhanh chóng hơn, tạo điều kiện để các DN nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành chính, tác phong làm việc của CBCC phải được cải thiện để phục vụ các hoạt động hành chính ở quy mô lớn hơn, phạm vi rộng hơn. Các cơ quan quản lý HCNN trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải có cơ chế, các biện pháp để bảo vệ DN của Việt Nam khi xuất khẩu các mặt hàng ra nước ngoài bảo đảm tiêu chuẩn theo quy định.
Trên thế giới, nhiều quốc gia lớn đã và đang tiến hành CCHC và đạt được những thành tựu to lớn. Thông qua quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta có thể học tập, trao đổi kinh nghiệm để áp dụng hợp lý bài học kinh nghiệm hay của các nước vào CCHC ở Việt Nam.
Chú thích:
1. Báo cáo số 6248/BC-BNV ngày 24/12/2018 của Bộ Nội vụ về tình hình thực hiện công tác cải cách hành chính năm 2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính.
2. Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020.
TS. Vũ Việt Hà
Học viện Chính trị Công an nhân dân