Biển đảo Việt Nam – Hội nhập và bảo vệ chủ quyền

(QLNN) – Biển đảo Việt Nam luôn là một phần máu thịt không thể tách rời của Tổ quốc ta, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta. Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của vệ Tổ quốc không chỉ bảo vệ toàn vẹn, thống nhất không gian lãnh thổ biển, đảo, lợi ích quốc gia, dân tộc mà còn góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân.

Quán triệt và thực hiện quan điểm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhằm quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Đồng thời, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong ASEAN, gìn giữ, phát triển các mối quan hệ đối ngoại với các nước, các tổ chức quốc tế, nêu cao chính nghĩa, tạo thế và lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta thể hiện rõ quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc; chủ trương phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại bảo vệ chủ quyền biển đảo trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Quan điểm đó đã thể hiện rõ trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là “Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020” và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X): “Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển”.

Quán triệt quan điểm của Đảng, toàn dân (cả kiều bào ở nước ngoài), toàn quân đã hướng về biển đảo, thực hiện phương châm: kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo thông qua thương lượng hòa bình, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển (năm 1982) và đã đạt được kết quả quan trọng, vừa giữ vững chủ quyền biển đảo, vừa giữ được tình hữu nghị và đoàn kết quốc tế.

Trong thời gian qua, Việt Nam đã “Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển, đảo, vùng trời và giữ được hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”1. Đồng thời, Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương 8, khoá XII) cũng nêu “nhận thức của toàn hệ thống chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững”.

Hiện nay, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thế và lực của ta trên các vùng biển, đảo đã tăng lên nhiều. Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân” trên biển, đảo không ngừng được củng cố, tăng cường. Các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo từng bước được xây dựng, phát triển ngày càng vững mạnh hơn, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam được Đảng, Nhà nước ưu tiên đầu tư hiện đại, có sự trưởng thành, lớn mạnh vượt bậc, đủ sức làm nòng cốt bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Bộ đội Hải quân cùng các lực lượng thực thi pháp luật khác trên biển (cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư…) không quản ngại khó khăn, gian khổ, hiểm nguy; kiên cường bám trụ nơi “đầu sóng, ngọn gió”; ngày đêm tuần tra, kiểm soát, khẳng định, bảo vệ chủ quyền, giữ bình yên biển, đảo, thực sự là điểm tựa tin cậy cho nhân dân yên tâm vươn khơi bám biển, phát triển kinh tế.

Đặc biệt, mỗi khi phải đối mặt với tình huống phức tạp, căng thẳng, các lực lượng trên biển luôn nêu cao ý chí quyết tâm “còn người, còn biển, đảo”, “một tấc không đi, một li không rời”; thực hiện đúng đối sách, phương châm, tư tưởng chỉ đạo; khôn khéo, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích quốc gia, an ninh, trật tự trên biển; không để xảy ra xung đột; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước.

Bên cạnh thuận lợi cơ bản, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay vẫn đang đứng trước những khó khăn, thách thức.

Tình hình quốc tế, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, những nhân tố mới xuất hiện tác động trực tiếp đến tình hình biển Đông. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột, mất ổn định. Sáu năm sau vụ hạ đặt trái phép giàn khoan HD-981 trong vùng thềm lục địa nước ta, Trung Quốc vẫn có những hành vi xâm phạm chủ quyền biển, đảo nước ta; thậm chí, xuất hiện một số động thái và xu hướng mới. Một số nước trong khu vực đã điều chỉnh chiến lược từ duy trì quyền lợi tự do đi lại trên biển, đến tiếp tục theo đuổi mục tiêu chiến lược lấn chiếm biển, đảo của nước ta. Vì vậy, họ đẩy mạnh các hoạt động và tiến hành hàng loạt biện pháp, thủ đoạn để từng bước độc chiếm, gây mất ổn định, an ninh biển đảo, đe dọa nghiêm trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp tích cực nhằm tăng cường đối thoại; phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ đoàn kết quốc tế để giải quyết các tranh chấp chủ quyền biển đảo, giữ vững an ninh quốc gia, ngăn ngừa xung đột, tạo môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác để phát triển đất nước.

Việt Nam có ranh giới vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa chung với hầu hết các nước xung quanh biển Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Cam-pu-chia. Hiện nay, trên biển Việt Nam còn bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ cần phải giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết hòa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa các nước, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Ma-lai-xi-a, Phi-lip-pin, Đài Loan (Trung Quốc); phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982; xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Tranh chấp chủ quyền biển, đảo ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế biển của Việt Nam theo nhiều khía cạnh. Vấn đề quan trọng nhất là phải giải quyết các bất đồng, tranh chấp trên biển thông qua biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị giữa các nước nhằm bảo đảm môi trường hòa bình để phát triển.

Để bảo đảm chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia trên biển của nước ta trong tình hình hiện nay, một mặt, cần không ngừng nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội gắn với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, thăm dò, khai thác, nuôi trồng và bảo vệ tài nguyên môi trường biển, phát triển hệ thống giao thông đường biển; mặt khác, phải tích cực đối thoại với các bên liên quan, tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị và đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm kiếm các giải pháp cơ bản và lâu dài mà các bên đều có thể chấp nhận được.

Việc giải quyết tranh chấp, giữ gìn hòa bình và ổn định, đẩy mạnh phát triển kinh tế biển trên biển Đông cần dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về Quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC). Các nước có liên quan cần tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của mỗi nước được quy định trong Công ước quốc tế và Luật Biển năm 1982 để giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực; các nước trong khu vực đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương giữa các nước có liên quan nhằm xây dựng lòng tin, tăng cường quan hệ hữu nghị, sử dụng, khai thác biển và bảo vệ môi trường biển một cách hiệu quả.

Những nhân tố gây mất ổn định, xâm phạm chủ quyền, an ninh vùng biển, đảo Việt Nam hiện đang diễn ra gay gắt; nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo và thềm lục địa của nước ta vẫn chưa được loại trừ. Những hành động nguy hiểm như làm biến dạng một số hòn đảo, quân sự hóa các đảo đã chiếm đóng trái phép của Việt Nam… đã và đang đe dọa trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở biển Đông.

Từ thực trạng chủ quyền, an ninh biển, đảo của nước ta hiện nay, trong thời gian tới, cần nghiên cứu một số định hướng cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển. Sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển, đảo là sức mạnh tổng hợp quốc gia, bao gồm và có sự kết hợp chặt chẽ tất cả các mặt trận, các lĩnh vực hoạt động: quốc phòng, an ninh, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý… Trong đó, sức mạnh quốc phòng, an ninh giữ vai trò đặc biệt quan trọng, phải xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên biển vững chắc, thế bố trí chiến lược các lực lượng có chiều sâu, liên hoàn bờ – biển – đảo, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi có xung đột. Xây dựng các lực lượng quản lý, bảo vệ biển, đảo, dự bị động viên, dân quân, tự vệ biển mạnh tổng hợp được sức mạnh và tính chiến đấu cao, trong đó hải quân là lực lượng nòng cốt, cần tiếp tục được ưu tiên xây dựng tiến lên chính quy, hiện đại, ngang tầm nhiệm vụ. Chỉ có trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp và tập trung của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó Hải quân làm nòng cốt mới có thể bảo đảm được khả năng bảo vệ chủ quyền, duy trì hòa bình, ổn định lâu dài trên biển.

Thứ hai, cần tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân đối với chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ biển, đảo. Củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong hệ thống chính trị và nhân dân về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Khi “ý Đảng” đã hợp với “lòng dân” sẽ tạo nên sức mạnh vô địch, đập tan những mưu đồ của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển, đảo chống phá nước ta; đồng thời, tạo sự ổn định chính trị trong nước để phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong bờ, ngoài biển. Hơn nữa, khơi dậy được lòng tự hào, tự tôn, truyền thống, ý chí kiên cường, bất khuất của dân tộc; hình thành mặt trận chính trị rộng lớn của nhân dân cả nước hướng về biển, đảo quê hương, chung sức đồng lòng bảo vệ biển, đảo Tổ quốc.

Thứ ba, tăng cường công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại quốc phòng với các nước trong khu vực, các nước có vùng biển giáp ranh, chồng lấn để xây dựng lòng tin, tạo sự hiểu biết lẫn nhau, giảm bớt căng thẳng, kịp thời phối hợp giải quyết bất đồng và các vấn đề nảy sinh trên biển. Qua đó, hình thành môi trường thuận lợi cho bảo vệ chủ quyền biển, đảo, không để xảy ra xung đột, không để đất nước bị cô lập trong vấn đề Biển Đông, cùng các nước xây dựng vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển, ổn định lâu dài.

Thứ tư, cần phải có hệ thống chính sách, pháp luật chặt chẽ, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Do đó, trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Luật Biển Việt NamChiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các bộ, ngành, địa phương cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất trong quản lý, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Chú trọng nghiên cứu xây dựng các chính sách về phát huy tiềm năng, thế mạnh của biển; về kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, bảo vệ biển, đảo. Đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế chỉ đạo, chỉ huy, điều hành, phối hợp, hiệp đồng các lực lượng, các mặt trận đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo khi có tình huống.

Thứ năm, tăng cường huấn luyện làm chủ và phát huy hiệu quả trang bị, nâng cao khả năng tuần tra, kiểm soát, bảo vệ chủ quyền, an ninh, trật tự, an toàn các hoạt động kinh tế biển. Khi có tình huống, cần tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về phương châm, đối sách, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xử lý; phát huy sức mạnh tổng hợp; kết hợp giữa đấu tranh trên thực địa với đấu tranh chính trị, ngoại giao, pháp lý; tổ chức, chỉ huy, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng; kiên quyết, khôn khéo bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trên biển.

Thứ sáu, thực hiện có hiệu quả Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển. Quá trình phát triển kinh tế biển cần được kết hợp với tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội biển, đảo và nâng cao đời sống nhân dân đi đôi với củng cố trang bị, xây dựng cầu cảng, công trình phòng thủ, bố trí dân cư. Các lực lượng chuyên trách, trong đó có Hải quân tích cực tham gia phát triển kinh tế quốc phòng trên biển, đảo, ưu tiên những vùng biển, đảo xa, tiền tiêu, còn nhiều khó khăn, góp phần tạo thế và lực cho đất nước trong hành trình bảo vệ và khai thác biển.

Chú thích:
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.H. Văn phòng Trung ương Đảng, 2016, tr.146.
Tài liệu tham khảo:
1. http://www.tapchicongsan.org.vn. Bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trong tình hình mới.
2. http://canhsatbien.vnMột số giải pháp chính trị góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc trong tình hình mới.
Thu Hương