Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập

(Quanlynhanuoc.vn) – Với sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực trực tiếp phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, giáo dục nghề nghiệp ở nước ta đang từng bước đổi mới, đạt được những kết quả khả quan. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về giáo dục nghề nghiệp có những chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào giáo dục nghề nghiệp ngày càng tăng. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa với nhiều cơ hội và thách thức, giáo dục nghề nghiệp ở nước ta cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa để không chỉ đảm đương trách nhiệm đào tạo nhân lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất – kinh doanh mà còn đáp ứng yêu cầu hội nhập, cạnh tranh.

 

Phòng học mô phỏng của nghề Lắp đặt cửa điện (Nguồn: baodansinh.vn).
Thực trạng công tác giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam thời gian qua

Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) có vai trò quan trọng đối với đào tạo nhân lực trực tiếp trong sản xuất – kinh doanh, dịch vụ, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế đối với quá trình hội nhập. Những năm qua, công tác GDNN ở nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp (DN) về GDNN có bước chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp có việc làm cao, thu nhập ổn định.

Để tạo điều kiện cho hoạt động GDNN phát triển, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này ngày càng được bổ sung, hoàn thiện. Theo đó, Luật Giáo dục năm 2005 đã có một mục riêng quy định về GDNN. Năm 2006, Luật Dạy nghề được ban hành, tạo nền tảng pháp lý thuận lợi cho hoạt động đào tạo nghề phát triển phù hợp với chủ trương, định hướng của Đảng và Nhà nước. Tiếp đó, năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật GDNN với nhiều đổi mới quan trọng và đột phá nhằm thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện GDNN, giải quyết các bất cập trong thực tiễn, tạo nên diện mạo mới của hệ thống GDNN ở Việt Nam.

Luật GDNN năm 2014 đã hình thành hệ thống GDNN trong hệ thống giáo dục quốc dân, quy định rõ 3 cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn mới. Đồng thời, thể hiện sự đổi mới về tổ chức và quản lý đào tạo, về chính sách cho người học, nhà giáo và cơ sở GDNN; bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa GDNN, tăng cường sự phối hợp, tham gia của doanh nghiệp (DN), người sử dụng lao động vào hoạt động đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động và xã hội.

Tại Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016 của Chính phủ về phiên họp thường kỳ của Chính phủ tháng 8/2016, Chính phủ đã thống nhất giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước (QLNN) về GDNN. Theo đó, từ ngày 01/01/2017, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chính thức tiếp nhận chuyển giao công tác QLNN về GDNN, tiếp nhận toàn bộ trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng từ Bộ Giáo dục và Ðào tạo.

Đến nay, sau hơn 3 năm chuyển giao, bộ máy QLNN về GDNN đã được kiện toàn từ trung ương tới địa phương. Việc quản lý được thực hiện theo hướng phân cấp mạnh cho địa phương và tăng tính tự chủ, đi đôi với tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDNN. Khi tiếp nhận, hệ thống GDNN có 1.989 cơ sở (gồm: 409 trường cao đẳng, 583 trường trung cấp và 997 trung tâm GDNN), đến cuối năm 2018, đã giảm xuống còn 1.954 cơ sở (bao gồm 394 trường cao đẳng, 515 trường trung cấp và 1.045 trung tâm GDNN). Mặc dù đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng trên thực tế, mạng lưới cơ sở GDNN vẫn còn bất cập về phân bố giữa các vùng, miền, ngành nghề, trình độ đào tạo, quy mô đào tạo của nhiều trường còn nhỏ…1.

Trước thực tế nêu trên, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở GDNN bảo đảm tinh gọn, cơ cấu hợp lý, hoạt động hiệu quả được xem là một trong những giải pháp quan trọng để sắp xếp lại hệ thống GDNN. Nhờ sự nỗ lực và tích cực trong đổi mới, chúng ta đã hình thành mạng lưới các cơ sở đào tạo nghề nghiệp rộng khắp cả nước, đa dạng về loại hình và ngành nghề đào tạo. Quy mô và chất lượng đào tạo nghề không ngừng tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của người dân, góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo. Tính đến tháng 6/2019, qua công tác quy hoạch, sắp xếp lại, cả nước còn 1.917 cơ sở GDNN, trong đó có 400 trường cao đẳng, 492 trường trung cấp, 1.025 trung tâm GDNN, giảm 37 cơ sở so với năm.2

Năm 2019, công tác tuyển sinh GDNN có nhiều chuyển biến tích cực: lĩnh vực GDNN tuyển sinh khoảng 2.338 nghìn người, đạt 103,5% kế hoạch năm, bằng 105,8% so với năm 2018; trong đó: trình độ cao đẳng, trung cấp khoảng 568 nghìn người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác khoảng 1.770 nghìn người. Đây là năm thứ 3 liên tiếp kể từ khi hệ thống GDNN được thống nhất quản lý về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, ngành đạt vượt chỉ tiêu về tuyển sinh. Cùng với việc đẩy mạnh công tác tuyển sinh, chất lượng đào tạo tại các cơ sở GDNN của Việt Nam cũng ngày càng được nâng lên. Kỹ năng nghề nghiệp của người tốt nghiệp các cơ sở GDNN được cải thiện. Trên 85% học sinh, sinh viên tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng có việc làm; có trường, có nghề đạt tỷ lệ 100% với mức thu nhập từ 7 – 10 triệu đồng/tháng… Tại các kỳ thi tay nghề của thế giới, Việt Nam đã dành nhiều thứ hạng cao, cụ thể, tại Kỳ thi tay nghề thế giới lần thứ 45 (tháng 8/2019) diễn ra tại Liên bang Nga, đoàn Việt Nam lần đầu tiên giành 1 Huy chương Bạc và được trao 8 Chứng chỉ nghề xuất sắc. Đây là kết quả cao nhất từ trước đến nay của Việt Nam sau bảy lần tham dự sự kiện này. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2019 (GCI 4.0) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chất lượng đào tạo nghề nghiệp của Việt Nam đã tăng 13 bậc, được đánh giá tốt nhất trong khối ASEAN3.

Cùng với việc chất lượng sinh viên tốt nghiệp được nâng lên, đội ngũ giáo viên tại các cơ sở GDNN của Việt Nam cũng được chuẩn hóa kỹ năng giảng dạy thông qua việc đổi mới cấu trúc chương trình GDNN từ tách biệt lý thuyết – thực hành sang đào tạo theo hình thức tích hợp kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành và thái độ nghề nghiệp. Tính đến hết tháng 12/2018, cả nước có tổng số 86.350 nhà giáo trong các cơ sở GDNN (trong đó có 37.826 nhà giáo tại các trường cao đẳng, 18.198 nhà giáo tại các trường trung cấp và 15.481 nhà giáo tại các trung tâm GDNN), ngoài ra, có gần 14.845 nhà giáo thuộc các cơ sở khác có tham gia hoạt động GDNN. Trong giai đoạn 2016 – 2018, 1.200 giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng trong nước về nghiệp vụ sư phạm GDNN; 15.000 giáo viên được đào tạo theo tín chỉ, biên soạn giáo án và tổ chức giảng dạy tích hợp, tổ chức đào tạo và đánh giá theo năng lực thực hiện, kỹ năng mềm; 2.850 lượt cán bộ quản lý GDNN; đào tạo, bồi dưỡng cho 391 giáo viên tại Ốt-xtrây-li-a, CHLB Đức để dạy các nghề nhận chuyển giao…4.

Công tác kiểm định và tự kiểm định (tự đánh giá) chất lượng trong GDNN được chú trọng, góp phần nâng cao chất lượng GDNN. Nhiều cơ sở GDNN, nhiều nghề đào tạo đã đạt tiêu chuẩn kiểm định của quốc tế (12 nghề của 25 trường đạt tiêu chuẩn kiểm định của Ốt-xtrây-li-a; 22 nghề của 45 trường đạt tiêu chuẩn kiểm định của Đức; 2 trường đạt tiêu chuẩn kiểm định của OFSTEFD Anh, 1 trường đạt tiêu chuẩn ABET Mỹ …)5. Việc hỗ trợ đầu tư tập trung đồng bộ cho các trường chất lượng cao và các nghề trọng điểm… đã từng bước góp phần thực hiện quan điểm đổi mới căn bản, toàn diện về GDNN theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Qua đó, chất lượng cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo của các cơ sở GDNN đã không ngừng được đổi mới, hiện đại hơn, đáp ứng yêu cầu phục vụ hiệu quả cho công tác đào tạo.

Bên cạnh đó, việc tăng cường gắn kết với DN trong tổ chức đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp bước đầu đi vào chiều sâu, hoạt động hiệu quả. Cơ chế phối hợp ba bên: Nhà nước – Nhà trường – DN bắt đầu hình thành và vận hành khá tốt trong thực tiễn… Xác định gắn kết với DN là một trong 3 đột phá để đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN, từ năm 2016 đến nay, nhiều hoạt động gắn kết với DN đã được triển khai. Đặc biệt, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH ngày 15/12/2017 quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, khuyến khích các cơ sở GDNN và DN liên kết để tổ chức đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, trong đó DN có thể đảm nhận giảng dạy đến 40% thời lượng của chương trình đào tạo.

Ngoài ra, nhiều DN còn tham gia hoạt động GDNN từ việc tham gia xây dựng chuẩn đầu ra, xây dựng chương trình, tham gia đào tạo, đánh giá người học cho đến tuyển dụng và việc làm với nhiều hình thức khác nhau như: liên kết đào tạo, đào tạo tại DN, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người lao động… Tại Diễn đàn quốc gia “Nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam” tháng 11/2019 tại Hà Nội, đã có 30 tập đoàn, DN, tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia ký kết, hợp tác trong các hoạt động GDNN, cùng nhau đào tạo và cung ứng hàng trăm nghìn lao động. Nhờ vậy đã tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường và DN trong suốt quá trình tuyển sinh, đào tạo, đánh giá và việc làm sau tốt nghiệp của các học viên.

Các hoạt động hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, triển khai ở nhiều lĩnh vực với sự tham gia của nhiều đối tác và nhiều quốc gia (Vương quốc Anh, CHLB Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Ốt-xtrây-li-a, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đan Mạch, các nước ASEAN…). Thông qua hợp tác quốc tế đã giúp cho GDNN của Việt Nam từng bước tiếp cận với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực ASEAN và thế giới.

Một số hạn chế trong công tác giáo dục nghề nghiệp

Bên cạnh những điểm sáng rõ nét, công tác GDNN vẫn còn những khó khăn, thách thức cần vượt qua.

Thứ nhất, nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng về GDNN ở một số địa phương chưa đầy đủ, thậm chí còn coi nhẹ; một bộ phận xã hội vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của GDNN trong đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội; tâm lý coi trọng bằng cấp vẫn còn nặng nề; việc định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT không đạt mục tiêu đề ra.

Hiệu quả và hiệu lực của công tác QLNN trong lĩnh vực GDNN chưa cao; năng lực của cơ quan QLNN về GDNN ở địa phương còn hạn chế; đội ngũ cán bộ QLNN về GDNN thiếu về số lượng, chưa chuyên nghiệp và một bộ phận chưa đạt chuẩn; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đào tạo trong lĩnh vực GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu.

Thứ hai, mạng lưới cơ sở GDNN ở các vùng miền, ngành nghề, trình độ đào tạo còn nhiều bất cập; quy mô đào tạo của nhiều cơ sở GDNN không đồng đều; việc sáp nhập cơ sở GDNN ở một số địa phương còn mang tính hành chính, cơ học, chưa có nguyên tắc sáp nhập cụ thể, chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDNN sau sắp xếp.

Cơ cấu trình độ đào tạo trong GDNN  chưa hợp lý, chủ yếu vẫn là đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên, ngắn hạn (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25% trên tổng số tuyển sinh. Công tác tuyển sinh trong GDNN gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt đối với những ngành, nghề học nặng nhọc, độc hại, ngành nghề đòi hỏi trình độ năng khiếu.

Thống kê cho thấy, trong nhiều năm qua, quy mô lao động qua đào tạo của nước ta còn nhỏ bé so với yêu cầu của nền kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện ở tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ còn rất thấp, chỉ chiếm 22,22% lực lượng lao động vào cuối năm 2018 và có sự chênh lệch lớn giữa nông thôn và thành thị (14,29% và 39,71%). Chất lượng, năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam ở mức thấp so với các nước trong khu vực và quốc tế. Mặc dù nhiều năm qua, công tác phân luồng học sinh sau THCS luôn được quan tâm, nhưng mục tiêu tăng tỷ lệ học sinh sau THCS đi học nghề đến nay vẫn rất hạn chế. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 đề ra mục tiêu là học sinh sau THCS vào GDNN chiếm tỷ lệ 30% vào năm 2020, có nghĩa là quy mô học sinh tốt nghiệp THCS vào hệ thống GDNN khoảng 320 đến 330 nghìn học sinh. Tuy nhiên, nhiều năm qua, chỉ có khoảng 8 – 10% số học sinh sau THCS đi học nghề6.

Thứ ba, chất lượng, hiệu quả đào tạo của nhiều cơ sở GDNN đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân lực của từng ngành, lĩnh vực cụ thể và yêu cầu của đổi mới cơ cấu kinh tế – xã hội.

Việc gắn kết với DN còn nhiều hạn chế; chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của DN chỉ được sử dụng, tuyển dụng lao động đã qua đào tạo nghề nghiệp ở tất cả các lĩnh vực lao động theo quy định của Luật GDNN; nhiều DN chưa nhận thức đúng về trách nhiệm xã hội trong việc tham gia hoạt động GDNN.

Thứ tư, công tác quản lý và kiểm soát chất lượng GDNN còn hạn chế; tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ban hành còn chậm; việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề chưa được triển khai rộng rãi. Việc huy động các nguồn lực đầu tư cho GDNN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ngân sách nhà nước đầu tư cho GDNN những năm gần đây tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với mục tiêu nhiệm vụ đề ra; nhiều địa phương chưa ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển GDNN.

Một số giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu hội nhập

Trong bối cảnh hiện nay, trước sự vận động, phát triển không ngừng của khoa học – công nghệ và tri thức nhân loại, đặc biệt là trước yêu cầu của toàn cầu hóa, quốc tế hóa – những xu thế vừa là thời cơ, vừa là thách thức, GDNN Việt Nam cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ để không chỉ đảm đương được trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trực tiếp phục vụ cho sản xuất – kinh doanh mà còn đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Theo đó, cần tập trung vào những nội dung sau:

Một là, chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng, nhất là các điều kiện về chương trình, giáo trình, về nhà giáo, cán bộ quản lý; về cơ sở vật chất, thiết bị phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp cận các nước trong ASEAN-4 cũng như các nước phát triển trong nhóm G20. Cụ thể: đổi mới chương trình đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra trên cơ sở tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, có sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động phù hợp với chương trình đào tạo; xây dựng chương trình liên thông giữa các cấp trình độ đào tạo trong cùng ngành, nghề hoặc với các ngành, nghề khác hay liên thông lên trình độ cao hơn. Đổi mới tổ chức đào tạo, áp dụng công nghệ đào tạo tiên tiến của các nước phát triển, ứng dụng đồng bộ công nghệ thông tin trong dạy – học, quản lý đào tạo; thí điểm thuê chuyên gia nước ngoài đào tạo trong một số ngành, nghề chất lượng cao cần đạt chuẩn quốc tế mà trong nước chưa đáp ứng được. Đổi mới hình thức và phương pháp thi, kiểm tra đánh giá: khuyến khích sự tham gia của DN, đơn vị sử dụng lao động, các hiệp hội nghề nghiệp trong đánh giá kết quả đào tạo của cơ sở GDNN.

Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở GDNN. Chuẩn hóa, tăng cường cơ sở vật chất thiết bị theo chuẩn, chú trọng công trình dịch vụ phụ trợ tạo môi trường học tập thân thiện, hiện đại, đáp ứng nhu cầu học tập, sinh hoạt của người học.

Hai là, quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo, gắn với việc hình thành đồng thời các cơ sở GDNN đa ngành và chuyên ngành gắn kết GDNN với thị trường lao động, việc làm bền vững và tăng cường sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động trong hoạt động GDNN. Hoàn thiện các quy định để DN là chủ thể của GDNN, được tham gia các công đoạn trong quá trình đào tạo. Thí điểm thành lập hội đồng ngành trong một số lĩnh vực với sự tham gia của cơ quan QLNN về GDNN, các bộ, ngành, các DN. Áp dụng công nghệ để xây dựng hệ thống kết nối cung và cầu đào tạo trong toàn hệ thống. Phát triển hệ thống quản lý và bảo đảm chất lượng GDNN, triển khai mô hình quản lý, quản trị nhà trường theo hướng hiện đại, tinh gọn, chuyên nghiệp; nâng cao năng lực về quản lý và bảo đảm chất lượng; phát triển hệ thống đánh giá và cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia cho người lao động… Đặc biệt, thực hiện hiệu quả công tác phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT vào học GDNN và liên thông giữa các bậc trình độ và giữa GDNN và bậc đại học; bảo đảm người đủ tiêu chuẩn và có nhu cầu được học liên thông lên trình độ cao hơn.

Ba là, nâng cao chất lượng hoạt động dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực, việc làm và nhu cầu đào tạo; trao quyền tự chủ cho các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, đánh giá độc lập, sự kiểm soát của Nhà nước, giám sát của xã hội; đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về GDNN, trong đó tập trung hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDNN.

Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực GDNN. Phát triển hệ thống quản lý, đánh giá và công nhận chất lượng GDNN quốc gia bảo đảm tương thích với các khung tham chiếu của khu vực. Phát triển kiểm định chất lượng GDNN và đánh giá, công nhận trường chất lượng cao, chương trình đào tạo chất lượng cao. Đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng GDNN độc lập. Tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống quản lý chất lượng cho các trường cao đẳng và trung cấp theo chuẩn các nước phát triển; nhận chuyển giao công nghệ quản lý, quản trị nhà trường từ các nước phát triển. Áp dụng công nghệ thông tin để xây dựng và vận hành hệ thống thông tin quản lý hiện đại tại các trường trung cấp và cao đẳng (ưu tiên các trường trong danh sách được lựa chọn đầu tư thành trường chất lượng cao và các trường chất lượng cao).

Bốn là, tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho phát triển GDNN: mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ hỗ trợ dạy nghề, khuyến khích và đẩy mạnh việc huy động, có chính sách quy định trách nhiệm và quyền lợi đối với sự đóng góp của các tổ chức xã hội, các DN, các tập thể, các tổ chức quốc tế và cá nhân trong và ngoài nước cho GDNN.

Chuẩn hóa và tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị theo ngành, nghề theo chuẩn, đẩy mạnh xây dựng phòng học đa phương tiện, phòng chuyên môn hóa; hệ thống thiết bị thực tế ảo và các phần mềm ảo mô phỏng thiết bị dạy học thực tế trong các cơ sở GDNN…

Năm là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực GDNN. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, gắn với trách nhiệm của cơ quan QLNN về GDNN các cấp; phân cấp mạnh chức năng QLNN cho các bộ, ngành, địa phương. Hoàn thiện và nâng cao năng lực bộ máy QLNN về GDNN đáp ứng được yêu cầu thông qua việc chuẩn hóa cán bộ quản lý các cấp. Nghiên cứu để từng bước giảm can thiệp hành chính của cơ quan chủ quản đối với cơ sở GDNN công lập.

Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và tăng cường công tác tuyên truyền, hướng nghiệp, tư vấn về GDNN. Trong đó, cần xây dựng kế hoạch truyền thông chuyên nghiệp, bài bản với sự tham gia của các bộ, ngành, địa phương, cơ sở GDNN, nhà giáo và các cơ quan có liên quan; chủ động cung cấp thông tin kịp thời chính xác cho báo chí để định hướng dư luận, tạo niềm tin cho xã hội.

Chú thích:
1, 6. Đột phá để cải thiện chất lượng giáo dục nghề nghiệp. https://nhandan.com.vn, ngày 24/5/2019.
2, 5. Báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tại Hội thảo: “Phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế”, ngày 20/9/2019.
3. Báo cáo của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp về công tác giáo dục nghề nghiệp năm 2019.
4. Đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp. http://consosukien.vn, ngày 04/5/2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Giáo dục năm 2005.
2. Luật Dạy nghề năm 2006.
3. Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014.
4. Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 03/9/2016 của Chính phủ về phiên họp thường kỳ của Chính phủ tháng 8/2016.
TS. Ngô Thị Hải Anh
 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh