Phát triển kinh tế – xã hội năm 2018 và các giải pháp trọng tâm năm 2019

(QLNN) – Năm 2018 diễn ra trong bối cảnh thế giới diễn biến phức tạp, xung đột xảy ra ở nhiều nơi, cạnh tranh giữa các nước lớn diễn ra gay gắt, đặc biệt là cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc tiếp tục leo thang. Trước tình hình khoa học  – công nghệ phát triển nhanh và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0  tác động sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, Chính phủ đã kịp thời ban hành cũng như quyết liệt chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2018, gồm 9 nhóm với 56 giải pháp và 242 nhiệm vụ cụ thể, toàn diện trên các lĩnh vực, phấn đấu đạt cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra.

 

Một số kết quả đạt được về phát triển kinh tế – xã hội năm 2018

Năm 2018, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng với định hướng, chủ trương kịp thời của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, đồng bộ của Chính phủ, đặc biệt là trong việc tập trung hoàn thiện thể chế, đổi mới chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp…, tình hình kinh tế – xã hội nước ta đã có những chuyển biến ấn tượng. Đặc biệt, năm 2018 được đánh giá là đã thực hiện thành công mục tiêu kép – đó là vừa giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Kinh tế – xã hội Việt Nam tiếp tục có những chuyển biến ấn tượng. (Ảnh minh họa, nguồn: Internet).

Điều này tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của nhân dân, ổn định trật tự, an toàn xã hội trong các năm tiếp theo. Với kết quả đạt được của năm bản lề 2018, tình hình đất nước trên các lĩnh vực trong 3 năm (2016 – 2018) được đánh giá là phát triển đúng hướng, có nhiều chuyển biến rõ nét hơn giai đoạn trước. Với phương châm hành động: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả”, chúng ta đã đạt được kết quả toàn diện trên các lĩnh vực, hoàn thành toàn bộ 12 chỉ tiêu kế hoạch, trong đó có 9 chỉ tiêu vượt.

Thứ nhất, việc cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng được tiếp tục đẩy mạnh. Năm 2018, tăng trưởng kinh tế có sự cải thiện rõ nét. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất kể từ năm 2011 trở về đây[1], như vậy,  bình quân 3 năm 2016 – 2018, GDP tăng 6,57% (chỉ tiêu kế hoạch  5 năm là 6,5 – 7%)[2]. Mức tăng trưởng này khẳng định tính kịp thời và hiệu quả của các giải pháp được Chính phủ ban hành, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng nỗ lực thực hiện.

Đây là một thành công lớn của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng giảm dần khai thác tài nguyên, chuyển sang công nghiệp chế biến, chế tạo, nông nghiệp công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát triển các ngành dịch vụ, du lịch.

Trong mức tăng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng 7,03%, đóng góp 42,7%. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10,2% so với năm 2017[3].

Năm 2018, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 244,72 tỷ USD, tăng 13,8% so với năm 2017; kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước đạt 237,51 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm trước. Cán cân thương mại cả năm 2018 tiếp tục xuất siêu 7,2 tỷ USD, gấp hơn ba lần năm 2017. Cơ cấu chuyển dịch tích cực theo hướng giảm xuất khẩu thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến, nông sản và tăng nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất[4].

Như vậy, cơ cấu kinh tế đang có sự chuyển dịch tích cực; tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh từ 17,4% năm 2015 xuống 14,8% năm 2018; tỷ trọng các khu vực công nghiệp, dịch vụ tăng từ 82,6% lên 85,2%, vượt mục tiêu đề ra vào năm 2020 là 85%[5]. Qua kết quả tăng trưởng khả quan cho thấy, việc cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng bước đầu đã phát huy hiệu quả, giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, nhất là dầu khí.

Năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) giai đoạn 2016 – 2018 ước đạt 42,18%, cao hơn giai đoạn 2011 – 2015 (33,58%) và vượt mục tiêu kế hoạch 5 năm 2016 – 2020 (30 – 35%). Năng suất lao động bình quân 3 năm 2016 – 2018 tăng 5,62%, cao hơn giai đoạn 2011 – 2015 (4,35%) và vượt mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2016 – 2020 (5%)[6].

Quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2018 ước đạt trên 5,5 triệu tỷ đồng (khoảng 240,5 tỷ USD), gấp trên 1,3 lần năm 2015. GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so với năm 2015. Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá kinh tế Việt Nam có triển vọng tốt, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới[7].

Thứ hai, ổn định vĩ mô, kiểm soát tốt lạm phát. Trong điều kiện tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, Chính phủ đã chỉ đạo theo dõi sát, điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa và các chính sách khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm ước 3,54%, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra, là năm thứ 3 liên tiếp kiểm soát dưới 4%. Lạm phát tăng 1,48% so với bình quân năm 2017. Huy động vốn của các tổ chức tín dụng tăng 11,56%; tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 13,30%[8]. Tỷ giá, thị trường ngoại tệ được kiểm soát tốt. Thị trường chứng khoán tiếp tục phát triển, trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; Việt Nam được đưa vào danh sách theo dõi nâng hạng lên thị trường mới nổi.

Năm 2018, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 34% GDP, 3 năm (2016 – 2018) ước đạt 33,5% (mục tiêu 5 năm là từ 32 – 34%). Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước giảm; tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước tăng, trong đó đầu tư tư nhân ước đạt 42,4%, bình quân 3 năm (2016 – 2018) đạt 40,8%, cao hơn giai đoạn 2011 – 2015 (38,3%). Vốn FDI thực hiện ước cả năm đạt 18 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư tăng; chỉ số ICOR giai đoạn 2016 – 2018 ở mức 6,32, thấp hơn giai đoạn 2011 – 2015 (6,91)[9].

Bên cạnh đó, tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt 1.272,5 nghìn tỷ đồng, bằng 96,5% dự toán năm; tổng chi NSNN ước đạt 1.272,1 nghìn tỷ đồng, bằng 83,5% dự toán năm[10]. Tỷ trọng chi đầu tư phát triển đạt 26,8%, cao hơn giai đoạn trước (23,6%) và kế hoạch 2016 – 2020 (25 – 26%). Nợ công khoảng 61,4% GDP, giảm mạnh so với mức 63,7% năm 2016[11].

Thứ ba, môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Đã thực hiện chủ trương cắt giảm tối thiểu 50% thủ tục hành chính, trong đó đã cắt giảm, đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất, nhập khẩu. Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm 10 quốc gia cam kết mạnh mẽ nhất về cải cách chính sách thuế. Cả năm có 131.275 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 1.478,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% về số doanh nghiệp và tăng 14,1% về số vốn đăng ký so với năm 2017. Doanh thu và thu nhập của người lao động được cải thiện, góp phần giảm nghèo, giữ ổn định xã hội[12].

Thứ tư, công tác y tế, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ, an sinh xã hội có bước tiến mới. Công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân và công tác dân số trong tình hình mới được chú trọng.

Lĩnh vực giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, đào tạo nghề có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Chiến lược quốc gia, khung Chương trình khoa học – công nghệ về cách mạng công nghiệp lần thứ tư được tập trung xây dựng. Chính sách đặc thù phát triển một số khu công nghệ cao được ban hành. Thị trường khoa học – công nghệ tiếp tục phát triển. Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam năm 2018 tăng 2 bậc, đứng thứ 45/126 quốc gia, vùng lãnh thổ[13].

Bên cạnh đó, triển khai hiệu quả các chỉ thị của Ban Bí thư về tăng cường công tác người có công với cách mạng, đã hỗ trợ cho trên 178 nghìn hộ theo Chương trình hỗ trợ nhà ở cho người có công; đưa vào vận hành Cổng thông tin điện tử về liệt sĩ, mộ liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ. An sinh xã hội được bảo đảm; huy động nguồn lực xã hội vào các hoạt động giảm nghèo, nhất là đối với vùng có điều kiện khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Tỷ lệ hộ nghèo còn 5,2 – 5,7%, giảm 1 – 1,5% (riêng các huyện nghèo giảm trên 4%). Tạo việc làm cho trên 1,62 triệu lượt người, trong đó đưa trên 126 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị giảm còn 3,14% (mục tiêu năm 2020 là dưới 4%). Tăng lương theo lộ trình; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, kịp thời hỗ trợ người lao động khi có vấn đề phát sinh. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội trong độ tuổi lao động đạt 30,2%[14].

Thứ năm, việc xây dựng, tổ chức thi hành pháp luật, cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, lãng phí được chú trọng. Đã thành lập Ủy ban quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng chính phủ điện tử và các cơ sở dữ liệu quốc gia. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin, kết nối liên thông, cung cấp dịch vụ công trực tuyến.

Công tác bảo vệ môi trường và quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên, khoáng sản đạt hiệu quả tốt. Cơ bản hoàn thành việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020; cấp giấy chứng nhận lần đầu đối với 97,2% diện tích cần cấp. Bên cạnh đó, đã xây dựng, trình Trung ương thông qua Đề án tổng kết 10 năm thực hiện  Nghị quyết Trung ương 8 khóa X về Chiến lược Biển Việt Nam. Quan tâm bảo vệ, phát triển rừng; tỷ lệ che phủ đạt 41,65% (mục tiêu là 41,6%)[15].

Công tác quốc phòng, an ninh, đối ngoại được tập trung chỉ đạo; phối hợp chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia; góp phần nâng cao vị thế đất nước. Đẩy mạnh đối ngoại đa phương; chủ động, tích cực tham gia, định hình các cơ chế hợp tác khu vực, quốc tế. Đảm nhiệm tốt vai trò nước chủ nhà trong tổ chức các Hội nghị quốc tế, trong đó Hội nghị WEF ASEAN 2018 được đánh giá là hội nghị khu vực thành công nhất trong lịch sử 27 năm của Diễn đàn kinh tế Thế giới…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát triển nền kinh tế – xã hội nước ta vẫn còn một số hạn chế. Sức ép lạm phát còn lớn do tác động của nhiều yếu tố, nhất là biến động tỷ giá, lãi suất, xu hướng tăng giá dầu thô trên thị trường quốc tế và yêu cầu thực hiện lộ trình giá thị trường đối với điện, dịch vụ giáo dục, y tế… Cơ cấu lại ngành, lĩnh vực ở một số nơi còn lúng túng, chưa đồng bộ, chưa gắn với thị trường. Giải ngân vốn đầu tư công, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thoái vốn ở nhiều bộ, ngành, địa phương chậm. Điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực chưa thông thoáng, gây khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

Tuy nhiều tổ chức quốc tế nâng hạng Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, nhất là môi trường kinh doanh nhưng Diễn đàn kinh tế Thế giới (WEF) xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018 của Việt Nam giảm 3 bậc so với năm 2017. Bên cạnh đó, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bị thiên tai còn cao; nguy cơ tái nghèo lớn. Nguồn lực thực hiện chính sách xã hội còn hạn chế; vẫn còn tình trạng trục lợi chính sách. Chất lượng giáo dục đại học, nghề nghiệp chưa cao; cơ cấu chưa hợp lý. Xảy ra một số sai phạm trong kỳ thi trung học phổ thông ở một số địa phương. Việc quản lý, khai thác và sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản còn lãng phí, xảy ra nhiều vi phạm. Kỷ luật, kỷ cương nhiều nơi chưa nghiêm. Đổi mới đơn vị sự nghiệp công lập chậm. Công tác cán bộ còn không ít yếu kém, phát hiện nhiều vi phạm trong tuyển dụng, bổ nhiệm. Công tác thông tin truyền thông về hội nhập, năng lực giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế còn hạn chế; chưa tận dụng hiệu quả cơ hội do các hiệp định FTA mang lại…

Triển vọng phát triển kinh tế năm 2019 và các giải pháp chủ yếu

Năm 2019, theo đánh giá của các chuyên gia, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục đà phát triển khi tiềm lực đất nước vững mạnh hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó không phải không có những khó khăn thách thức khi mà tình hình thế giới, khu vực được dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế thế giới tăng trưởng chậm lại và tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức; chiến tranh thương mại, biến động tỷ giá, lãi suất, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng; thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ngày càng nặng nề…

Chính vì vậy, đề đạt được triển vọng phát triển kinh tế, Chính phủ đã đề ra một số chỉ tiêu chủ yếu đối với phát triển kinh tế – xã hội, trong đó nêu rõ: Về kinh tế: GDP tăng 6,6 – 6,8%; tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân khoảng 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7 – 8%; tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33 – 34% GDP. Về xã hội: tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1 – 1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt  60 – 62%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 24 – 24,5%; số giường bệnh/một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 27 giường; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,1%. Về môi trường: tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 89%; tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,85%.

Để đạt được các mục tiêu trên, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp theo chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ngày 28/12/2018 về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm 2019 như sau:

Một là, tiếp tục củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực ứng phó với những biến động bất thường của thị trường, nhất là thị trường thế giới; duy trì đà tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng trên cơ sở cải thiện mạnh mẽ hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược, đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Xây dựng chương trình quốc gia về tăng năng suất lao động. Phấn đấu tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Nâng cao hiệu quả hoạt động; đẩy mạnh thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm công khai, minh bạch, tối đa hóa lợi ích của Nhà nước; phát huy vai trò của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Tập trung rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách, tạo đột phá mạnh mẽ hơn nữa, bảo hộ quyền tài sản, thí điểm các mô hình kinh doanh mới, hiệu quả, nhất là những ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao, đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Có chính sách phù hợp, hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường.

Hai là, quan tâm và có biện pháp cụ thể, thiết thực hơn nữa đối với việc xây dựng và phát triển có hiệu quả văn hóa, xã hội, xây dựng con người theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XII và các nghị quyết của Trung ương về lĩnh vực này. Triển khai hiệu quả Chương trình hành động thực hiện các Mục tiêu Phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hiệp quốc. Chăm lo đời sống người có công. Chú trọng giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; ưu tiên nguồn lực thực hiện các đề án, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong quản lý, khám, chữa bệnh; xây dựng hệ thống thông tin theo dõi sức khỏe nhân dân; chống lạm dụng bảo hiểm y tế.

Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; sẵn sàng ứng phó kịp thời, xử lý có hiệu quả các sự cố thiên tai và cứu hộ, cứu nạn. Ban hành, thực hiện hiệu quả Chương trình hành động triển khai Nghị quyết Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đẩy nhanh tiến độ các chương trình, dự án ứng phó biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và cam kết COP-21, P4G.

Ba là, tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện có hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả các âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Tổ chức tốt các hoạt động đối ngoại cấp cao; thúc đẩy hoàn tất đàm phán Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); đẩy mạnh vận động ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc. Thực hiện hiệu quả các giải pháp phòng ngừa, nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế; phát huy, tận dụng tốt cơ hội do các Hiệp định FTA mang lại. Đổi mới công tác ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại và bảo hộ công dân.

Bốn là, đẩy mạnh và làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là xây dựng Chính phủ, chính quyền các cấp thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nghiêm túc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Triển khai Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Làm tốt hơn nữa công tác cán bộ để lựa chọn, bố trí những cán bộ thật sự có đức, có tài, liêm chính, tâm huyết, thật sự vì nước, vì dân vào các vị trí lãnh đạo của bộ máy nhà nước. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những người tham nhũng, hư hỏng; chống mọi biểu hiện chạy chức, chạy quyền, ưu ái tuyển dụng người thân không đủ tiêu chuẩn. Phát huy dân chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong thực thi công vụ; nâng cao đạo đức, văn hóa, tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức. Thực hiện nghiêm các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và tiếp công dân; rà soát, xử lý kịp thời, dứt điểm các khiếu nại, tố cáo để từng bước giảm thiểu, tiến tới chấm dứt hiện tượng khiếu kiện đông người, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài.

Tăng cường phòng, chống, phát hiện, xử lý nghiêm các vụ việc tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật; đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc nghiêm trọng, xã hội quan tâm; thu hồi tối đa tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát. Giữ vững nguyên tắc, nền nếp sinh hoạt đảng; khắc phục tình trạng coi nhẹ, thậm chí coi thường công tác xây dựng nội bộ Đảng trong các cơ quan nhà nước. Chủ động, tích cực tham gia chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng./.

Chú thích:
1, 3, 4, 8, 10, 12. Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo chí tình hình kinh tế – xã hội năm 2018, ngày 27/12/2018.
2, 5, 6, 7, 9, 11, 13, 14, 15. Chính phủ, Báo cáo về tình hình kinh tế – xã hội năm 2018 và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2019, ngày 21/10/2018.
Tài liệu tham khảo:
1. Phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ngày 28/12/2018. Báo Lao động điện tử, ngày 28/12/2018.

                           PGS.TS. Nguyễn Cúc
Học viện Chính trị khu vực I