Phát triển hệ thống đô thị hướng tới mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045

(Quanlynhanuoc.vn) – Sau hơn 36 năm đổi mới, hệ thống đô thị ở nước ta ngày càng được mở rộng và thể hiện rõ vai trò động lực, đầu tàu phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, của vùng và của từng địa phương. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa và phát triển hệ thống đô thị những năm qua cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Chính vì vậy, xây dựng chiến lược phát triển hệ thống đô thị hướng tới mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 là việc vô cùng cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Thực trạng phát triển đô thị ở Việt Nam

Tính đến cuối năm 2020, hệ thống đô thị (HTĐT) nước ta đã có 862 đô thị các loại, phân bổ tương đối đồng đều. Tỷ lệ đô thị hóa (ĐTH) xác định theo địa bàn đã tăng từ 30,5% (năm 2010) lên gần 40% (năm 2020)1. Không gian đô thị cũng đã được mở rộng; hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế – xã hội (KTXH) được quan tâm đầu tư theo hướng ngày càng đồng bộ và hiệu quả, nhất là giai đoạn 2011 – 2020, nhiều địa phương đã chú trọng phát triển đô thị (PTĐT) theo hướng đáp ứng những yêu cầu về văn minh đô thị cũng như bảo đảm chất lượng cuộc sống của người dân ở các khu đô thị theo hướng PTĐT thông minh và PTĐT theo hướng bền vững.

Phú Mỹ Hưng tạo được vẻ đẹp hiện đại nhưng đậm dấu ấn bản địa châu Á (Nguồn: internet)

Các đô thị đang đóng góp 70% GDP cả nước, 5 thành phố trực thuộc trung ương mặc dù chỉ chiếm 2,9% về diện tích và khoảng 22% về dân số nhưng năm 2020 đã đóng góp tới 46,8% GDP cả nước2.  Bước đầu hình thành cực tăng trưởng kinh tế và trung tâm đổi mới sáng tạo; khoa học – công nghệ; giáo dục – đào tạo tại các đô thị lớn, (nhất là tại Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ…) góp phần tạo điểm nhấn về cảnh quan kiến trúc, văn hóa cho các đô thị tại các nơi ở chất lượng cao trong việc cung ứng các dịch vụ thiết yếu cho người dân khu vực đô thị ngày càng tốt hơn…

Bên cạnh những kết quả tích cực trong quá trình ĐTH và phát triển HTĐT thời gian qua, việc mở rộng và PTĐT ở nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế, như: quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị chưa thực sự phù hợp; số lượng đô thị gia tăng nhưng chất lượng của việc ĐTH chưa cao; còn nhiều bất cập trong quản lý nhà nước trên địa bàn đô thị; quá trình PTĐT chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình xây dựng và hiện đại hóa nông thôn. Bên cạnh đó, việc xây dựng và kiến trúc khu vực đô thị về kết cấu, chất lượng hạ tầng, nhất là kiến trúc đô thị cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát triển dân số và kinh tế; chưa thích ứng với biến đổi khí hậu, ứng phó với dịch bệnh quy mô lớn. Khả năng tiếp cận dịch vụ công và phúc lợi xã hội của người nghèo và lao động di cư tại các vùng đô thị còn thấp và nhiều bất cập do không có chính sách đối với dân di cư phù hợp…

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

Một là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và PTĐT chưa hoàn chỉnh, chưa thống nhất và còn nhiều bất cập. Đặc biệt, việc triển khai lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch năm 2017 đang gặp nhiều khó khăn, nhất là tại một số đô thị lớn, như: TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Hai là, trình độ quản trị đô thị của các cấp, các ngành, nhất là cơ quan chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của tốc độ ĐTH. Đặc biệt, tại các tỉnh, thành phố đều có mô hình quản trị đô thị giống nhau dựa trên các tiêu chí phân loại đô thị mà không tính tới tính đặc thù của đô thị mỗi vùng, mỗi địa phương. Về cơ cấu quản trị, mỗi đô thị không được tự quyết định được về mô hình và số lượng cán bộ trong bộ máy chính quyền cho phù hợp với thực tiễn từng địa phương cũng như chức năng của từng loại đô thị, nhất là tại những địa phương chuyển từ huyện thành quận; xã thành phường làm cho sự hình thành các khu đô thị mới gần như tách biệt, đứt gãy với khu vực làng xóm nông thôn cũ; công tác quản lý dân cư tại các khu đô thị, nhất là các khu đô thị mới chưa hiệu quả;…

Ba là, trong quá trình phát triển chuỗi các đô thị cho thấy, năng lực cạnh tranh của các đô thị là chưa cao do sự thiếu tính liên kết và tính đa ngành. Bên cạnh đó, sự phối hợp đa ngành trong phát triển, quản lý đô thị cũng còn lỏng lẻo.

Bốn là, khó khăn thách thức của Việt Nam là nguồn vốn tài chínhNhu cầu vốn cho phát triển hạ tầng giao thông đô thị cũng như mở rộng các vùng đô thị vệ tinh là rất lớn, trong khi nguồn lực của các đô thị còn rất thiếu và yếu. Điều này có nguyên nhân lý giải một phần là do việc phân bổ ngân sách trung ương cho các đô thị còn chưa hợp lý. Đơn cử: việc nhận tỷ lệ trích tổng thu ngân sách về địa phương của TP. Hồ Chí Minh là 18% và của Hà Nội là 35%; bình quân chi ngân sách/người tại hai thành phố này thấp hơn nhiều tỉnh, thành phố khác3.

Quan điểm và mục tiêu thúc đẩy đô thị hóa và phát triển hệ thống đô thị giai đoạn 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Để khắc phục những hạn chế của quá trình ĐTH và phát triển HTĐT ở nước ta thời gian qua, ngày 24/01/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là Nghị quyết riêng đầu tiên đánh dấu mốc quan trọng với tầm nhìn chiến lược, có tính thời đại, thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với công tác quy hoạch, PTĐT trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa.

Về quan điểm phát triển HTĐT hướng tới mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 theo một số định hướng cơ bản, như: đổi mới tư duy, lý luận và phương pháp quy hoạch đô thị; bảo đảm quy hoạch đô thị phải có tầm nhìn dài hạn, đồng bộ và hiện đại; tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật về đô thị; phát triển HTĐT bền vững theo mạng lưới, phân bổ hợp lý, phù hợp với từng vùng, miền, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền; thực hiện phân cấp và phân quyền mạnh mẽ hơn cho chính quyền các đô thị gắn với đề cao trách nhiệm, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của trung ương…

Về mục tiêu tổng quát, đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng ĐTH, PTĐT bền vững theo mạng lưới, hình thành một số đô thị, chuỗi đô thị động lực thông minh kết nối với khu vực và thế giới. Thể chế, chính sách về quy hoạch, xây dựng, quản lý và PTĐT bền vững cơ bản được hoàn thiện. Kết cấu hạ tầng của đô thị, nhất là hạ tầng kỹ thuật khung và hạ tầng xã hội thiết yếu được xây dựng và phát triển đồng bộ, hiện đại. Kinh tế khu vực đô thị tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Chất lượng sống tại đô thị ở mức cao, bảo đảm đáp ứng cơ bản nhu cầu về nhà ở và hạ tầng xã hội cho cư dân đô thị. Phát triển kiến trúc đô thị hiện đại, xanh, thông minh, giàu bản sắc, các yếu tố văn hóa đặc trưng được giữ gìn và phát huy.

Về mục tiêu cụ thể:

Đến năm 2025, tỷ lệ ĐTH khoảng 45%; năm 2030, tỷ lệ ĐTH đạt trên 50%. Tỷ lệ đất xây dựng đô thị trên tổng diện tích đất tự nhiên đạt khoảng 1,5 – 1,9% vào năm 2025, đến năm 2030 đạt khoảng 1,9 – 2,3%.

Số lượng đô thị toàn quốc đến năm 2025 khoảng 950 – 1.000 đô thị, đến năm 2030 khoảng 1.000 – 1.200 đô thị. Đến năm 2025, 100% các đô thị hiện có và đô thị mới có quy hoạch tổng thể, quy hoạch phân khu, chương trình cải tạo, chỉnh trang, tái thiết và PTĐT; bảo đảm tối thiểu 100% đô thị loại III trở lên hoàn thiện tiêu chí phân loại đô thị về cơ sở hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng về y tế, giáo dục, đào tạo và công trình văn hoá cấp đô thị. Đến năm 2030, hình thành một số trung tâm đô thị cấp quốc gia, cấp vùng đạt các chỉ tiêu về y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa cấp đô thị tương đương mức bình quân của các đô thị thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN.

Đến năm 2025, hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình tại đô thị, phổ cập dịch vụ mạng di động 4G, 5G và điện thoại thông minh; tỷ lệ dân số trưởng thành tại đô thị có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%. Đến năm 2030, phổ cập dịch vụ mạng Internet băng rộng cáp quang, phổ cập dịch vụ mạng di động 5G, tỷ lệ dân số trưởng thành tại đô thị có tài khoản thanh toán điện tử trên 80%.

Kinh tế khu vực đô thị đóng góp vào GDP cả nước khoảng 75% vào năm 2025 và khoảng 85% vào năm 2030. Tỷ trọng kinh tế số trong GRDP của các đô thị trực thuộc Trung ương đạt bình quân 25 – 30% vào năm 2025, 35 – 40% vào năm 2030. Xây dựng được mạng lưới đô thị thông minh trung tâm cấp quốc gia và cấp vùng kết nối quốc tế và 3 – 5 đô thị có thương hiệu được công nhận tầm khu vực và quốc tế vào năm 2030.

Tầm nhìn đến năm 2045, tỷ lệ ĐTH thuộc nhóm trung bình cao của khu vực ASEAN và Châu Á. HTĐT liên kết thành mạng lưới đồng bộ, thống nhất, cân đối giữa các vùng, miền, có khả năng chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ môi trường, kiến trúc tiêu biểu giàu bản sắc, xanh, hiện đại, thông minh. Xây dựng được ít nhất 5 đô thị đạt tầm cỡ quốc tế, giữ vai trò là đầu mối kết nối và phát triển với mạng lưới khu vực và quốc tế. Cơ cấu kinh tế khu vực đô thị phát triển theo hướng hiện đại với các ngành kinh tế xanh, kinh tế số chiếm tỷ trọng lớn4.

Một số giải pháp cho việc thúc đẩy quá trình đo thị hoá và phát triển đô thị đến 2030, tầm nhìn đến 2045

Thứ nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và PTĐT bền vững.

(1) Hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, đầu tư, quy hoạch, PTĐT, kiến trúc, xây dựng bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, loại bỏ các mâu thuẫn, chồng chéo, trong đó chú trọng sửa đổi và hoàn thiện đồng bộ các Luật Đất đai, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở,… Sớm xây dựng khung pháp lý cho PTĐT thông minh, đô thị xanh, đô thị thân thiện, khung pháp lý về quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phát triển bền vững, đặc trưng vùng, miền về điều kiện tự nhiên, di sản, văn hóa,…

(2) Điều chỉnh các chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá, phân loại đô thị theo hướng nâng cao chất lượng sống đô thị, tăng trưởng xanh, thông minh và bền vững trên phạm vi cả nước và cho từng vùng, từng địa phương phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị phù hợp với đặc điểm vùng miền, các đô thị có tính đặc thù.

(3) Sửa đổi, bổ sung quy định về phân loại đô thị bảo đảm tính đồng bộ giữa quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính và quy hoạch tổng thể HTĐT. Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn, quy chuẩn riêng cho xây dựng và lựa chọn mô hình PTĐT bền vững, phù hợp cho từng vùng, miền, có tính trọng yếu về quốc phòng, an ninh, di tích lịch sử, di sản văn hoá, cảnh quan thiên nhiên cần bảo tồn, gìn giữ. Khắc phục triệt để tình trạng nâng cấp đô thị khi chưa đủ tiêu chí.

(4) Hoàn thiện pháp luật và các cơ chế, chính sách khác tạo thuận lợi cho các địa phương trong xử lý các vấn đề liên ngành, liên vùng, như: bảo vệ nguồn nước, kết nối hạ tầng, quản lý chất thải, sử dụng tài nguyên, đất đai, vận tải công cộng, hạ tầng số và logistic…; đầu tư vào kết cấu hạ tầng vùng đặc biệt ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách điều phối và kiểm soát đối với công tác quy hoạch, sử dụng đất sản xuất và đất xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, các cụm công nghiệp.

(5) Bố trí nguồn vốn ngân sách nhà nước tương xứng để bảo đảm thực hiện các mục tiêu của chính sách an sinh nhà ở. Rà soát, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi, thủ tục hành chính về nhà ở xã hội. Tạo lập hành lang pháp lý và cơ chế khuyến khích hình thành và phát triển các quỹ cho phát triển nhà ở và bất động sản; có chính sách ưu đãi, khuyến khích đủ mạnh để thu hút nguồn lực xã hội đầu tư xây dựng nhà ở, nhà cho thuê đối với người thu nhập thấp, thu nhập trung bình, cải tạo, chỉnh trang đô thị. Tháo gỡ các vướng mắc về pháp lý, ban hành cơ chế, chính sách đột phá và phân cấp triệt để cho các địa phương để đẩy nhanh cải tạo, xây dựng lại các chung cư cũ, công trình hết niên hạn sử dụng, nhà ở ven kênh rạch, các khu dân cư nghèo trong đô thị.

(6) Cần sớm ban hành Chiến lược PTĐT Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030 nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2021 – 2030. Việc xây dựng chiến lược PTĐT đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045 phải phù hợp với sự phân bố và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, với yêu cầu của quá trình hiện đại hóa đất nước; phải xác định, được việc phát triển HTĐT theo mô hình mạng lưới, xanh, thông minh, thân thiện và bền vững; có kết cấu hạ tầng kinh tế – kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, hiện đại; thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; có nền kiến trúc đô thị tiên tiến,  nhưng giàu bản sắc; có vai trò và vị thế xứng đáng trong mạng lưới đô thị trong khu vực nhưng cần có tính cạnh tranh cao trong phát triển KTXH quốc gia, khu vực và quốc tế, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý PTĐT bền vững.

(1) Đổi mới toàn diện về phương pháp, quy trình, nội dung và sản phẩm quy hoạch theo hướng quy hoạch đô thị phải có cách tiếp cận đa ngành, với tầm nhìn dài hạn, toàn diện, có tính chiến lược, tôn trọng quy luật thị trường và nguyên tắc phát triển bền vững; phân định rõ các vùng trong nội dung quy hoạch đô thị và áp dụng các công cụ kiểm soát phát triển theo quy hoạch và kế hoạch; gắn quy hoạch đô thị với nguồn lực thực hiện. Xây dựng hệ thống dữ liệu toàn quốc về quy hoạch PTĐT; ứng dụng rộng rãi hệ thống thông tin địa lý (GIS) và công nghệ số, nền tảng số trong quy hoạch và quản lý PTĐT5.

(2) Tổ chức quy hoạch, xây dựng và PTĐT lõi cũng như vùng đô thị, nhất là quy hoạch xây dựng hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, khu công cộng, quy hoạch quản lý sử dụng không gian nối, không gian ngầm và hệ thống công trình ngầm đô thị phù hợp với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch bảo đảm quốc phòng, an ninh; gắn kết chặt chẽ giữa công tác lập quy hoạch, PTĐT với nhiệm vụ lập quy hoạch và quản lý, bảo vệ các khu quân sự và địa hình ưu tiên cho nhiệm vụ quốc phòng, an ninh.

(3) Bảo đảm phân loại đất đô thị gắn với quy hoạch đô thị và mục đích sử dụng đất: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đô thị phải phù hợp với quy hoạch đô thị được phê duyệt và quy hoạch hạ tầng; kiểm soát chặt chẽ quy trình chuyển đổi đất nông thôn thành đất đô thị theo quy hoạch và chương trình PTĐT.

(4) Tập trung ưu tiên thực hiện mục tiêu về PTĐT theo quy hoạch trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KTXH, kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm của địa phương. Hoàn thiện các quy định, chế tài để xử lý nghiêm các vi phạm trong quy hoạch và các dự án đô thị chậm triển khai; gắn trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy và chính quyền các ngành, các cấp liên quan trong công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị,

Thứ ba, tập trung xây dựng phát triển HTĐT quốc gia bền vững và đồng bộ về mạng lưới.

Căn cứ chiến lược, quy hoạch về PTĐT quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 những năm tới cần tập trung xây dựng các vùng đô thị, hành lang đô thị, dải đô thị ven biển trên cơ sở xác định rõ vai trò, chức năng của từng đô thị, nhất là các đô thị động lực của từng vùng và cả nước, đô thị kết nối khu vực và quốc tế. Xác định PTĐT là hạt nhân phát triển KTXH cấp vùng, tăng mật độ đô thị tại các vùng trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, PTĐT những đô thị trung tâm mang tính quốc gia, khu vực và quốc tế (như: Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế và Cần Thơ); đô thị là trung tâm cấp vùng; đô thị là trung tâm của các vùng liên tỉnh, liên huyện… Phát triển chuỗi các đô thị biển, đô thị hải đảo gắn với thực hiện Chiến lược kinh tế biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Theo đó, giai đoạn đầu 2021 – 2030 cần tập trung vào các chuỗi đô thị theo hướng cao tốc Bắc – Nam, tuyến cao tốc kết nối đường xuyên Á TP. Hồ Chí Minh – Phnom Penh – Bangkok; các điểm đô thị biển đảo; các trục hành lang theo hướng Đông – Tây… Ngoài ra, cần ưu tiên phát triển các đô thị vừa và nhỏ (loại IV, V thị xã, thị trấn) và vùng ven đô để hỗ trợ phát triển nông thôn thông qua các mối liên kết đô thị – nông thôn.

Thứ tư, đẩy mạnh phát triển nhà ở, hệ thống hạ tầng đô thị đồng bộ, hiện đại, liên kết, thích ứng với biến đổi khí hậu.

(1) Bố trí nguồn lực và triển khai thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đổi mới phương thức, mô hình quản lý và phát triển nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp. Cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ gia đình, cá nhân tự xây dựng, cải tạo nhà ở phù hợp với quy hoạch đô thị và quy chế quản lý kiến trúc đô thị. Quản lý và giám sát chặt chẽ việc phát triển nhà ở cao tầng tại trung tâm các đô thị lớn.

(2) Xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đến năm 2030. Tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và kỹ thuật diện rộng, hạ tầng số. Khuyến khích sử dụng vật liệu xanh, xây dựng và phát triển hạ tầng xanh, công trình xanh, tiêu thụ năng lượng xanh tại đô thị. Đầu tư tăng cường năng lực hệ thống hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là tại đồng bằng sông Cửu Long. Chú trọng ưu tiên quy hoạch hệ thống đường bộ, đường sắt hiện đại, phát triển hệ thống giao thông thủy phù hợp, bảo đảm thông suốt và liên kết vùng; đầu tư khép kín các đường vành đai, đường xuyên tâm, hệ thống giao thông công cộng đồng bộ có sức chở lớn, bến, bãi đỗ xe tại các đô thị. Tăng cường khai thác sử dụng hệ thống không gian ngầm, công trình ngầm đô thị, không gian đa chức năng của đô thị. Xây dựng lộ trình và giải pháp khả thi hạn chế xe cá nhân, nhất là xe máy tại các đô thị lớn. Xây dựng đồng bộ về hạ tầng và ban hành các chính sách ưu đãi để khuyến khích sử dụng phương tiện giao thông thân thiện với môi trường tại đô thị.

(3) Xây dựng, thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng số đồng bộ tại các đô thị tương đương với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; tích hợp hệ thống đo lường, cảm biến, các hệ thống dữ liệu, khai thác hiệu quả các nền tảng và ứng dụng công nghệ số vào các hạ tầng thiết yếu tại đô thị; thúc đẩy mô hình quản lý thông minh trong vận hành, quản lý và khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị. Cấu trúc lại hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hình thành một số nền tảng số dùng chung cho các đô thị, vùng đô thị.

(4) Nâng cấp, cải tạo, xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng xã hội hiện đại tại đô thị và mạng lưới cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội. Thực hiện lồng ghép các mục tiêu và định hướng phát triển hệ thống công trình dịch vụ hạ tầng xã hội và nguồn lực thực hiện vào quá trình lập và phê duyệt chương trình PTĐT. Tiếp tục có chính sách khuyến khích, ưu đãi đặc biệt về thuế đối với các dự án cung cấp dịch vụ xã hội đô thị ở các khu kinh tế, các vùng công nghiệp lớn. Đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp dịch vụ đô thị. Đa dạng hóa các mô hình cung cấp dịch vụ hạ tầng xã hội; thực hiện tích hợp hệ thống hạ tầng xã hội với các đầu mối giao thông tiện ích tại các đô thị lớn.

Thứ năm, xây dựng và hoàn thiện mô hình chính quyền đô thị.

(1) Tổng kết việc thực hiện thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và các cơ chế, chính sách riêng, có tính đặc thù đối với một số địa phương, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh để làm căn cứ sớm hoàn thiện thể chế về chính quyền đô thị. Nghiên cứu, sắp xếp, sáp nhập, thành lập mới đơn vị hành chính đô thị bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, phù hợp với quy hoạch và yêu cầu phát triển.

(2) Thực hiện phân cấp và trao quyền mạnh mẽ cho các địa phương trong quản lý đô thị. Nâng cao năng lực, tăng cường hiệu quả và tính chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu của chính quyền đô thị các cấp. Xây dựng nguồn nhân lực cho PTĐT. Xây dựng vị trí việc làm nghiệp vụ chuyên ngành gắn với nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức về quản lý đô thị từ trung ương đến địa phương. Đẩy nhanh chuyển đổi số trong quản lý đô thị, xây dựng chính quyền điện tử tiến tới chính quyền số ở đô thị gắn kết chặt chẽ với PTĐT thông minh. Tổng kết, hoàn thiện Luật Thủ đô và các quy định phân cấp quản lý cho TP. Hồ Chí Minh và các thành phố trực thuộc trung ương phù hợp với yêu cầu phân cấp, trao quyền tự chủ mạnh mẽ cho chính quyền các đô thị.

(3) Xây dựng văn hoá và lối sống đô thị văn minh. Hoàn thiện quy hoạch không gian văn hóa đô thị đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ của người dân, chú trọng tạo dựng nhiều không gian văn hóa công cộng. Rà soát tổng thể, sắp xếp lại các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở tại các đô thị theo hướng thiết thực, hiệu quả, đa năng, phục vụ rộng rãi các đối tượng, phù hợp với Chiến lược phát triển văn hoá, thể thao đến năm 2030. Bố trí đủ quỹ đất và ngân sách hợp lý, ràng buộc rõ trách nhiệm của chủ đầu tư các khu đô thị đối với việc xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao cho cư dân; xã hội hóa, khuyến khích các doanh nghiệp cùng đầu tư.

(4) Bảo đảm quyền tự do cư trú của người dân và xóa bỏ mọi rào cản đối với dịch chuyển lao động. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm cho lao động nông thôn di cư, lao động phi chính thức được hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, có cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản tại đô thị. Mở rộng diện bao phủ của hệ thống an sinh xã hội tới lao động di cư. Rà soát, hoàn thiện chính sách về hỗ trợ học tập, dạy nghề, việc làm cho người dân bị thu hồi quyền sử dụng đất trong quá trình ĐTH. Thúc đẩy bình đẳng giới, có chính sách quan tâm tạo việc làm cho nữ giới tại đô thị.

(5) Ưu tiên nguồn lực phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản tại đô thị, nhất là dịch vụ giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe. Tăng đầu tư, biên chế bảo đảm phát triển hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở tại đô thị đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Hoàn thiện mô hình cơ quan kiểm soát và phòng, chống dịch bệnh tại trung ương và các địa phương bảo đảm đồng bộ với quá trình PTĐT, đáp ứng yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe dân cư đô thị. Nâng cấp hạ tầng và hoàn thiện hệ thống quản lý tình huống khẩn cấp, tăng cường năng lực phòng, chống và giảm thiểu thiên tai, dịch bệnh tại các đô thị.

(6) Xây dựng và hoàn thiện các mô hình bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quản lý đô thị phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chú trọng ứng dụng công nghệ số trong quá trình thực hiện.

(7) Tăng cường các biện pháp kiểm soát, cải thiện chất lượng không khí tại các đô thị, giảm thiểu nhanh ô nhiễm bụi, tiếng ồn; xây dựng đồng bộ hệ thống quan trắc, giám sát chất lượng môi trường tại các đô thị; chú trọng xử lý nước thải sinh hoạt và chất thải rắn đô thị; cải thiện căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường và vệ sinh môi trường ở các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các khu nhà ở của người thu nhập thấp trong các đô thị. Có định hướng và giải pháp phát triển các vùng đệm xanh xung quanh các đô thị; phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp xanh phục vụ đô thị.

(8) Tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng và đô thị. Khuyến khích các đô thị tăng cường hợp tác với các đô thị, các tổ chức quốc tế. Chủ động, tích cực tham gia hệ thống mạng lưới các đô thị xanh, thích ứng, bản sắc, bền vững và thông minh ở khu vực và quốc tế.

Thứ sáu, phát triển kinh tế khu vực đô thị; đổi mới cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư PTĐT.

(1) Triển khai các chương trình, đề án tái thiết đô thị; khai thác hiệu quả và bền vững các công trình văn hóa, lịch sử, các không gian công cộng như vỉa hè trong phát triển kinh tế khu vực đô thị. Đẩy nhanh việc di dời có trật tự các cơ sở sản xuất chế biến, chế tạo; trung tâm logistic đầu mối; các cơ sở gây ô nhiễm môi trường hoặc có nguy cơ gây ảnh hưởng đến an toàn cho người dân ra khỏi khu vực trung tâm các đô thị lớn; quy hoạch lại hệ thống bệnh viện, trường đại học, cao đẳng, cơ sở nghiên cứu, trung tâm logistic, trung tâm thương mại, chợ đầu mối, mạng lưới chợ dân sinh.

(2) Phát triển kinh tế dịch vụ, các ngành công nghiệp chế tạo tiên tiến và có tính chiến lược, phát triển kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, kinh tế du lịch, thể thao… tại các đô thị đặc biệt và các đô thị lớn; phát triển kinh tế gắn với chuỗi giá trị kinh tế nông nghiệp nông thôn và phát triển dịch vụ xã hội tại các đô thị nhỏ. Khuyến khích phát triển các thị tứ, thị trấn nông – công nghiệp trên cơ sở các khu dân cư nông thôn hiện có trở thành các trung tâm dịch vụ, sản xuất, chế biến, cung cấp thực phẩm, nguyên liệu, chuyển giao công nghệ… Ban hành các chính sách khuyến khích và nhân rộng các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp sinh thái ven biển gắn với hình thành PTĐT tại các địa phương ven biển, mô hình khu công nghiệp – đô thị – dịch vụ tại các đô thị. Khuyến khích các đô thị xây dựng thương hiệu gắn với thúc đẩy phát triển kinh tế của đô thị. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao tại các đô thị. Khuyến khích các đô thị hợp tác, xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn với các sản phẩm chiến lược và thế mạnh của địa phương.

(3) Nghiên cứu, hoàn thiện chính sách thuế, phí liên quan đến bất động sản nhằm khuyến khích sử dụng nhà, đất có hiệu quả. Hoàn thiện hành lang pháp lý và mô hình tổ chức phù hợp để Nhà nước quản lý thị trường bất động sản, kiểm soát và sử dụng hiệu quả giá trị gia tăng từ đất khi hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng giao thông được đầu tư mở rộng và khai thác quỹ đất hai bên tuyến đường nhằm tạo nguồn thu cho đô thị.

(4) Tháo gỡ các vướng mắc về chính sách tạo động lực để huy động vốn đầu tư cho vùng Hà Nội và vùng TP. Hồ Chí Minh. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý tài chính, ngân sách đặc thù đối với Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và một số đô thị lớn. Rà soát, xác định tỷ lệ nguồn thu giữ lại hợp lý hơn đối với các đô thị đặc biệt để bảo đảm phát huy vai trò của các đô thị động lực trong cả nước, có cơ chế tạo nguồn thu, phân cấp ngân sách để lại cho các đô thị có kế hoạch nâng loại đô thị. Phân quyền mạnh mẽ cho các chính quyền đô thị các khoản thu từ các loại thuế, phí. Thí điểm, tiến tới mở rộng phân cấp cho các thành phố trực thuộc Trung ương và các đô thị khác đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện được quyết định một số khoản thu đặc thù gắn với yêu cầu tăng cường trách nhiệm cung cấp dịch vụ đô thị,

Chú thích:
1. Quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 17/5/2022.

2. Hội nghị Đô thị toàn quốc năm 2022. Hà Nội, ngày 30/11/2022.
3. Phát triển đô thị ở Việt Nam hướng tới mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 05/5/2021.
4 . Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị ban hành về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
5. Tầm nhìn chiến lược mang tính thời đại cho phát triển đô thị bền vững. https://nhandan.vn, ngày 03/6/2022.

PGS. TS. Nguyễn Thị Phượng
Học viện Hành chính Quốc gia