Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở tổ chức cơ sở đảng

(Quanlynhanuoc.vn) – Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) xác định: “Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng1. Bài viết tập trung đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên  nhằm xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh.
Đại hội XIII của Đảng. Ảnh: baochinhphu.vn.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”2; Người luôn đề cao vai trò của đội ngũ đảng viên (ĐNĐV): “mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành. Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo. Mà muốn cho quần chúng nghe lời mình, làm theo mình, thì người đảng viên, từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu. Thế là làm cho dân tin Đảng, phục Đảng, yêu Đảng và làm theo chính sách của Đảng và của Chính phủ”3. Vì vậy, Người thường xuyên quan tâm đến nâng cao chất lượng ĐNĐV. Hồ Chí Minh yêu cầu, “người đảng viên – dù công tác to hay nhỏ, địa vị cao hay thấp – ở đâu cũng phải làm gương mẫu cho quần chúng… Mà muốn cho quần chúng hăng hái thi hành, thì người đảng viên ắt phải xung phong làm gương mẫu để quần chúng bắt chước, làm theo”4; “phải làm gương mẫu trong lao động sản xuất và trong học tập”5; “phải xung phong gương mẫu trong mọi công việc, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân”6; “phải gương mẫu, phải thiết thực, miệng nói tay làm để làm gương cho nhân dân”7.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐNĐV, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng – họ là những người trực tiếp quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; liên hệ mật thiết với quần chúng; tổ chức và lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ ở cơ sở. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) và chất lượng ĐNĐV luôn được coi trọng và xác định là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.

Những năm qua, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của ĐNĐV, các cấp ủy, TCCSĐ đã có nhiều chủ trương, biện pháp thiết thực, hiệu quả để nâng cao chất lượng ĐNĐV, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Nghị quyết số 21-NQ/TW khẳng định: “Chất lượng đội ngũ đảng viên chuyển biến tích cực, trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị được nâng cao hơn. Phần lớn đội ngũ đảng viên luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tự phê bình và phê bình, tiên phong, gương mẫu, xây dựng mối quan hệ mật thiết với Nhân dân”8. Kết quả trên cho thấy, công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng được Đảng ta thường xuyên quan tâm, chăm lo và đang có bước chuyển mình tiến bộ, góp phần xây dựng TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, phẩm chất, uy tín, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, “nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở”9; “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”10; trong đó, biểu hiện cụ thể là phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, dao động, thiếu niềm tin, sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức sai, quan điểm lệch lạc; không có ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc…

Trong khi đó, “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”11. Nghị quyết số 21-NQ/TW khẳng định: “Một bộ phận đảng viên năng lực, trình độ, trách nhiệm chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; phai nhạt lý tưởng cách mạng, thiếu bản lĩnh chính trị, đấu tranh tự phê bình và phê bình yếu; tinh thần trách nhiệm, ý chí phấn đấu giảm sút; chưa gương mẫu, sống thực dụng; suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, vi phạm nguyên tắc, kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”12.

Thực trạng trên đã và đang làm giảm sút vai trò lãnh đạo của TCCSĐ, suy giảm tình cảm và niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Đây là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Vì vậy, hơn lúc nào hết, đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng TCCSĐ, đặc biệt là xây dựng ĐNĐV có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Để nâng cao chất lượng ĐNĐV ở TCCSĐ, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:

Một là, đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của ĐNĐV ở cơ sở.

Đây là vấn đề quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. TCCSĐ cần tiến hành công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐNĐV để không ngừng nâng cao “sức đề kháng”, theo phương châm kết hợp chặt chẽ giữa “xây” với “chống”, lấy “xây”, “phòng” là trọng tâm. Nội dung giáo dục phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với thực tiễn và chức trách, nhiệm vụ của từng đảng viên. Đặc biệt, coi trọng giáo dục cho đảng viên lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhân dân, chế độ XHCN, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện ĐNĐV thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu con đường XHCN; nắm vững những thời cơ, thách thức; thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp và hình thức giáo dục sát với từng đối tượng, đồng thời “Chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch”13.

Quán triệt cho ĐNĐV thấm nhuần quan điểm Đại hội XIII, tư tưởng Hồ Chí Minh về xâydựng Đảng, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận số 21-KL/TW về xây dựng Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 về tăng cường củng cố, xây dựng TCCSĐ và nâng cao chất lượng ĐNĐV trong tình hình mới… Trên cơ sở đó, cụ thể hóa, xây dựng kế hoạch, mục tiêu phấn đấu rèn luyện cho phù hợp với đặc điểm của từng TCCSĐ.

Hai là, nâng cao chất lượng công tác quản lý ĐNĐV.

Quản lý chặt chẽ, đánh giá chính xác phẩm chất, năng lực của ĐNĐV để có nội dung, biện pháp giáo dục rèn luyện thích hợp, làm cơ sở phân công giao nhiệm vụ thích hợp, giúp cho mọi đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, phòng ngừa, ngăn chặn sai lầm có thể xảy ra. Việc quản lý đảng viên phải toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật và phương pháp, tác phong công tác. Nghị quyết số 21-NQ/TW xác định, “tăng cường công tác quản lý đảng viên, nhất là về chính trị tư tưởng, về việc lập và sử dụng các trang thông tin trên Internet, mạng xã hội, đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập, lao động…”14. Quản lý không chỉ trên hồ sơ, sổ sách theo biện pháp nghiệp vụ hành chính đảng, mà cần quản lý thông qua thực tiễn hoạt động, công tác, sinh hoạt và các mối quan hệ xã hội của từng đảng viên. Đặc biệt quan tâm quản lý đảng viên là cấp ủy viên, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị.

Các cấp ủy, tổ chức đảng cần vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp quản lý phù hợp với đặc thù từng địa phương, cơ quan, đơn vị, từng đối tượng. Với những đảng viên thường xuyên thực hiện công tác xa, cần kết hợp giữa quản lý của tổ chức đảng với tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng và các tổ chức nghành nghề, chuyên môn nghiệp vụ. Coi trọng kết hợp giữa quản lý của tổ chức đảng với tự quản lý của ĐNĐV. Tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phát huy vai trò của quần chúng trong quản lý các mối quan hệ xã hội của đảng viên.

Ba là, thường xuyên coi trọng và làm tốt công tác phát triển, sàng lọc đảng viên.

Phát triển đảng viên mới là tăng thêm nguồn sinh lực cho Đảng, góp phần trẻ hóa đội ngũ, bảo đảm sự kế thừa và phát triển liên tục của Đảng, bổ sung cho Đảng những nguồn kế cận có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển Đảng trong mọi thời kỳ. Thực hiện quan điểm: “Tiếp tục tăng số lượng, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng phát triển đảng viên”15.

Trong nhóm các đối tượng tạo nguồn phát triển đảng của các TCCSĐ, chú trọng “đẩy mạnh bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên trong công nhân, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, khu vực ngoài nhà nước, nông dân, trí thức, thanh niên, sinh viên, người có tôn giáo, ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số theo phương châm “Ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên”, nhằm tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài”16. Vì vậy, các TCCSĐ cần tập trung bồi dưỡng toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp tác phong công tác cho mọi đối tượng nguồn là phát triển đảng; thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nhận thức về Đảng, công tác xây dựng Đảng, với nhiều hình thức để giáo dục, giác ngộ mục tiêu lý tưởng của Đảng, về Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và hệ thống nguyên tắc tổ chức của Đảng trên cơ sở đó, giáo dục xây dựng động cơ vào Đảng cho quần chúng một cách đúng đắn. Đồng thời, phát triển đảng viên phải lấy chất lượng làm chính, không chạy theo số lượng đơn thuần.

Bên cạnh công tác phát triển đảng, các TCCSĐ cần làm tốt công tác sàng lọc đảng viên – là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là biện pháp cơ bản để bảo đảm sự trong sạch của ĐNĐV và TCCSĐ, nâng cao chất lượng ĐNĐV, nâng cao uy tín và sức chiến đấu của Đảng. Các TCCSĐ cần thường xuyên làm tốt công tác sàng lọc, nâng cao chất lượng ĐNĐV. Kiên quyết và kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tiêu chuẩn, đặc biệt là những đảng viên thoái hoá về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp luật của nhà nước, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, không hoàn thành nhiệm vụ đảng viên. Đây là một việc hệ trọng, có quan hệ đến sinh mệnh chính trị và danh dự, uy tín cá nhân, tác động trực tiếp đến ý thức tư tưởng, tình cảm của cả ĐNĐV. Do vậy, khi tiến hành phải xem xét kỹ lưỡng, kiên quyết, nhưng cũng phải thận trọng, bảo đảm chặt chẽ, kịp thời, dân chủ, công khai.

Bốn là, nâng cao chất lượng, hiệu quả tự phấn đấu, tự rèn luyện của ĐNĐV.

TCCSĐ cần tạo điều kiện thuận lợi cho ĐNĐV học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ mọi mặt; quan tâm giúp đỡ, động viên ĐNĐV tự rèn luyện, tạo điều kiện để mỗi đảng viên xây dựng kế hoạch tự phấn đấu vươn lên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Bên cạnh đó, mỗi đảng viên cần tự giác tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao tính tiên phong, gương mẫu. ĐNĐV có thể tự học qua sách, báo, qua các phương tiện thông tin đại chúng, học tập lẫn nhau và qua hoạt động thực tiễn, thâm nhập vào thực tiễn hoạt động của quần chúng ở cơ sở. Đồng thời, mỗi đảng viên cần thực sự sâu sát với quần chúng, quý trọng nhân dân, tuyên truyền và tổ chức hiệu quả cho quần chúng thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, hòa mình vào thực tiễn cách mạng.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.

Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng; là nhân tố bảo đảm để chủ trương, đường lối của Đảng được thực hiện nghiêm túc, có hiệu lực, hiệu quả, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Ở các TCCSĐ khi tiến hành công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng cần được công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng và chặt chẽ theo đúng nguyên tắc. Coi trọng tự kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng; kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên đề. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào việc thực hiện Điều lệ Đảng, chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, sinh hoạt đảng, thực hiện nhiệm vụ công tác, trách nhiệm nêu gương, quy định về những điều đảng viên không được làm. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát để cấp ủy, tổ chức đảng chủ động nắm tình hình, phòng ngừa và kịp thời phát hiện sớm dấu hiệu vi phạm, xử lý nghiêm minh những đảng viên thiếu gương mẫu, thiếu trách nhiệm, suy thoái, tham nhũng, “lợi ích nhóm”.

Thường xuyên kiện toàn ủy ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra các cấp bảo đảm đủ số lượng, đúng cơ cấu; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra theo hướng chuyên nghiệp hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Cán bộ kiểm tra phải có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tính chiến đấu cao, có kinh nghiệm trong công tác xây dựng Ðảng, có kỹ năng nghiệp vụ thuần thục, phương pháp công tác khoa học, dân chủ, thận trọng, chặt chẽ; nắm vững và thực hiện đúng các nguyên tắc, thẩm quyền, quy trình, thủ tục, cơ chế, chính sách, quy định của Ðảng và Nhà nước.

Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ của cách mạng ngày càng đòi hỏi cao đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ cũng như chất lượng của ĐNĐV. Vì vậy, các cấp, các ngành mà trước hết TCCSĐ và từng cán bộ đảng viên phải nhận thức rõ yêu cầu, nhiệm vụ. Từ đó, nâng cao trách nhiệm trong việc xây dựng ĐNĐV, làm cho ĐNĐV của Đảng ngày một trong sạch, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngày một trưởng thành để hoàn thành sứ mệnh lịch sử thiêng liêng và cao cả mà Đảng và nhân dân giao cho, để xứng đáng là người chiến sĩ cộng sản, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chú thích:
1, 8, 12, 13, 14, 15, 16. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa XIII) về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 15. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 113.
3, 4. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,  2011, tr. 55, 55.
5. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 13. H. NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2011, tr.107.
6, 7. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 110, 168.
9, 11. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,  2016, tr. 22, 23.
10. Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI). H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2012, tr. 22.
Trung tá Lại Quân Sùng
Học viện Chính trị – Bộ Quốc phòng