Nâng cao chất lượng đội ngũ chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam

(Quanlynhanuoc.vn) – Chính trị viên đại đội trong Quân đội nhân dân Việt Nam là người chủ trì về chính trị ở đại đội, có vai trò quan trọng giữ vững định hướng chính trị trên tất cả các nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động, cả tổ chức và con người nhằm xây dựng chi bộ trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện. Để phát huy vai trò chủ trì về chính trị, hạt nhân, trung tâm đoàn kết trong chi ủy, chi bộ và đơn vị, đòi hỏi chính trị viên đại đội phải được củng cố, kiện toàn về số lượng, cơ cấu, nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác.
Ảnh minh họa (internet).
Đặt vấn đề

Trong thư gửi hội nghị chính trị viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Người chính trị viên tốt, thì bộ đội ấy tốt. Người chính trị viên không làm tròn nhiệm vụ, thì bộ đội ấy không tốt”1. Thực hiện lời dạy của Bác, đội ngũ chính trị viên đại đội (CTVĐĐ) là một bộ phận quan trọng của đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, là những người chủ trì về công tác chính trị ở đại đội, có vai trò quan trọng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đơn vị; bảo đảm cho mọi hoạt động của đơn vị, các tổ chức, các lực lượng trong đơn vị theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và chủ trương, biện pháp lãnh đạo của chi bộ đại đội.

Một số hạn chế của chính trị viên đại đội hiện nay

Những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp đã thường xuyên quan tâm, chú trọng bồi dưỡng, nâng cao chất lượng CTVĐĐ và đạt được hiệu quả thiết thực.Vì vậy, chất lượng CTVĐĐ có những chuyển biến tích cực cả về số lượng, cơ cấu, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, tác phong công tác… trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Ngày 20/7/2005, Báo cáo Sơ kết thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Quân ủy Trung ương đã chỉ rõ: “Chính ủy, chính trị viên vững vàng, kiên định, tiêu biểu về phẩm chất chính trị; gương mẫu, đoàn kết, có kiến thức và năng lực công tác tốt, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ quyền hạn, giữ vững nguyên tắc Đảng và nguyên tắc tiến hành công tác đảng, công tác chính trị; qua các kỳ đại hội, đều được bầu làm bí thư”2.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, việc nâng cao chất lượng CTVĐĐ vẫn còn có những hạn chế nhất định. Một số cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chức năng, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu nâng cao chất lượng; nội dung, hình thức, biện pháp nâng cao chậm được đổi mới; công tác tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, đánh giá, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với CTVĐĐ ở một số cấp ủy chưa tốt. Một bộ phận CTVĐĐ chậm thích nghi với công việc, chưa thực sự yên tâm với nhiệm vụ; phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác hạn chế, nắm chức trách nhiệm vụ, quyền hạn chưa kỹ, chưa sâu, giải quyết mối quan hệ với chỉ huy có đồng chí còn ỷ lại, chưa thực sự là người chủ trì về chính trị.

Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, công cuộc đổi mới đất nước diễn ra trong bối cảnh quốc tế, khu vực, trong nước có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; kinh tế thế giới đứng trước nguy cơ khủng hoảng do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19; cuộc CMCN 4.0 phát triển mạnh mẽ, sự chống phá ngày càng quyết liệt của các thế lực thù địch. Cùng với yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, nhất là sức mạnh chính trị tinh thần trong giai đoạn cách mạng mới; “xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội phát triển toàn diện, chuyên nghiệp, chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý”3… đòi hỏi đội ngũ cán bộ chính trị nói chung, CTVĐĐ nói riêng phải không ngừng được củng cố, nâng cao chất lượng toàn diện, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Nâng cao chất lượng chính trị viên đại đội

Một là, giáo dục, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, nguyên tắc của Đảng cho các tổ chức, lực lượng.

Trước hết, tập trung giáo dục cho các tổ chức, lực lượng và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về huấn luyện cán bộ, dùng cán bộ và lựa chọn cán bộ: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc… Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”4. Đồng thời, quán triệt Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 18/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ với quan điểm “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”5. Các nghị quyết của Quân ủy Trung ương, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp trong quân đội; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020 – 2025) về “Chấp hành nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm quy chế, quy định, các đề án, nghị quyết, kết luận trong hiện công tác cán bộ”6; quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Qua đó, các tổ chức, các lực lượng nhận thức đúng đắn, chấp hành nghiêm nguyên tắc, quy chế, quy trình về công tác cán bộ; nâng cao chất lượng CTVĐĐ với chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, thực hiện tốt việc phân công, phân nhiệm trong cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo phát huy vai trò, trách nhiệm nâng cao chất lượng CTVĐĐ trong quân đội hiện nay.

Hai là, thực hiện tốt công tác quản lý và đánh giá CTVĐĐ.

Các cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị theo phạm vi, quyền hạn được giao phải tiến hành quản lý toàn diện cả số lượng và chất lượng, đồng bộ đối với toàn đội ngũ và từng chính trị viên.Quản lý chặt chẽ lập trường tư tưởng, ý thức chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; điều lệnh, kỷ luật quân đội, mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên và năng lực tổ chức thực tiễn; nắm vững số lượng, cơ cấu chung, thành phần xuất thân, trình độ đào tạo, cấp bậc quân hàm; lịch sử chính trị của gia đình, bản thân, các mối quan hệ trong và ngoài đơn vị… Phát huy vai trò tự giác của CTVĐĐ trong điều chỉnh hành vi, thái độ, trách nhiệm trong tự tu dưỡng, rèn luyện hoàn thiện nhân cách người chính trị viên “vừa hồng”, “vừa chuyên”; tự giác chấp hành nghiêm kỷ luật, quy định của tổ chức.

Đánh giá CTVĐĐ, theo hướng “Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả”7 trên quan điểm khách quan, toàn diện, cụ thể và lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ làm thước đo; căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, đánh giá toàn diện cả về phẩm chất, năng lực, tác phong công tác, chiều hướng phát triển của từng chính trị viên. Cần kết hợp theo dõi đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ, nhằm phản ánh liên tục và kịp thời sự phát triển của họ, kết hợp nhiều nguồn thông tin khác nhau cho khách quan. Đẩy mạnh việc phân cấp nhận xét, đánh giá theo hướng “ai giao việc, người đó đánh giá”. Phát huy phẩm chất trung thực, cầu thị trong tự đánh giá của CTVĐĐ; khắc phục các biểu hiện đơn giản, hình thức, liệt kê nhiều ưu điểm, che giấu hạn chế, khuyết điểm của bản thân.

Ba là, tăng cường bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, phương pháp tác phong công tác cho CTVĐĐ.

Trước hết, cần coi trọng bồi dưỡng mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng bản lĩnh, lập trường kiên định với mục tiêu lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp đổi mới. Nâng cao ý chí quyết tâm, trách nhiệm chính trị, bồi dưỡng ý thức chính trị đúng đắn; nâng cao khả năng học tập, nghiên cứu, trau dồi tri thức toàn diện, trình độ trí tuệ, năng lực công tác của CTVĐĐ. Xây dựng, củng cố bản lĩnh chính trị, lập trường kiên định trước những khó khăn, thử thách, diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, luôn có thái độ và hành động kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ chân lý, lẽ phải; phê phán, khắc phục cái xấu, cái sai, tư tưởng và hiện tượng tiêu cực, lạc hậu.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài danh vọng”8. Vì vậy, cần tăng cường giáo dục, rèn luyện các chuẩn mực đạo đức cách mạng kết hợp với giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” cho CTVĐĐ, như: “trung với Đảng, hiếu với dân”, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; ý thức hết lòng phục vụ Nhân dân, vì Nhân dân mà phục vụ, yêu thương, quý trọng con người; lối sống trong sáng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân; tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân…

Đồng thời, tập trung bồi dưỡng những kỹ năng còn thiếu, còn yếu của CTVĐĐ, như: kỹ năng quán triệt, chỉ đạo, hướng dẫn triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết chi bộ; kỹ năng tổ chức, tiến hành các hoạt động công tác tư tưởng, công tác tổ chức xây dựng chi bộ, tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ khác thường xuyên và đột xuất được giao; kiến thức về thực hiện nhiệm vụ đối ngoại quân sự được giao; về phòng, phống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường; tham gia giải quyết điểm nóng, phức tạp ở địa phương. Nội dung bồi dưỡng phương pháp, tác phong công tác của CTVĐĐ cần hướng tới xây dựng tính tiên phong, gương mẫu trong công tác, rèn luyện, là tấm gương cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị noi theo. Theo đó, cần chú trọng bồi dưỡng các nội dung theo phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, như: tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn gắn chặt lý luận với thực tiễn; làm việc dân chủ, khoa học, kỹ lưỡng; ứng xử văn hoá, tinh tế, nhân văn; nói đi đôi với làm; nói và viết ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; tự mình nêu gương…

Bốn là, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và đổi mới chính sách.

Thường xuyên phát huy vai trò lãnh đạo, giáo dục chính trị tư tưởng của các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng đối với CTVĐĐ nhằm thấm nhuần những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính trị, quân sự của Đảng, nhiệm vụ của quân đội… Hình thành cho họ thế giới quan, xây dựng niềm tin, lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, với Nhân dân và những phẩm chất, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Đồng thời, chủ động nắm chắc diễn biến tư tưởng, điều kiện hoàn cảnh gia đình của từng CTVĐĐ để có biện pháp giải quyết những vướng mắc về tư tưởng nhằm kịp thời động viên họ vươn lên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Mặt khác, thông qua tổ chức và bằng tổ chức tiến hành có hiệu quả quy trình công tác cán bộ đối với CTVĐĐ; đặc biệt trong công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, sử dụng, đề bạt, hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá việc chấp hành nhiệm vụ, các nguyên tắc, chế độ, điều lệ Đảng, kỷ luật của quân đội; xác lập và giải quyết các mối quan hệ trong quá trình nâng cao chất lượng CTVĐĐ.

Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp phải tích cực nghiên cứu, rà soát, làm tốt công tác tham mưu với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng bổ sung, hoàn thiện các chính sách đối với đội ngũ cán bộ quân đội nói chung, CTVĐĐ nói riêng và hậu phương gia đình phù hợp với tính chất, đặc điểm, điều kiện hoạt động của CTVĐĐ. Đặc biệt là chính sách về nhà ở, tiền lương, chế độ phụ cấp, chính sách thi đua, khen thưởng và đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển đội ngũ cán bộ. Bên cạnh đó, thực hiện đúng, đủ những chế độ, chính sách mà CTVĐĐ và gia đình của họ được hưởng; chú trọng những CTVĐĐ là người đồng bào dân tộc thiểu số, công tác ở vùng sâu, vùng xa, CTVĐĐ xa nhà…

Năm là, từng CTVĐĐ phải tự giác, nỗ lực xây dựng động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn trong nâng cao phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác.

Hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông tạo ra những điều kiện thuận lợi, đồng thời, cũng đặt ra không ít khó khăn, thách thức đối với đội ngũ cán bộ quân đội nói chung và CTVĐĐ nói riêng. Mặt khác, trình độ nhận thức của cán bộ, chiến sĩ ở đại đội ngày càng được nâng lên, nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, quản lý kỷ luật ở đơn vị cơ sở luôn có sự vận động, phát triển. Để tránh lạc hậu, hụt hẫng trước sự phát triển không ngừng của thực tiễn và làm tròn vai trò chủ trì về chính trị, đòi hỏi CTVĐĐ phải tích cực học tập, nghiên cứu, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất, trình độ năng lực toàn diện của bản thân. Trong khi đó, tự học tập, tự rèn luyện tu dưỡng bản thân là quá trình lâu dài, phức tạp, nhiều khó khăn, thử thách; vì vậy, ngoài việc tự giác, nỗ lực xây dựng động cơ đúng đắn, CTVĐĐ cần phải có ý chí quyết tâm cao để tự học tập, tự rèn luyện bồi dưỡng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Các đồng chí phải dần dần xây dựng thái độ học tập đó thành một tác phong thường xuyên trong quá trình học tập”9. Theo đó, CTVĐĐ phải xây dựng cho mình thái độ, động cơ tích cực, chủ động, tự giác, học ở nhà trường; học ở sách, báo, đồng chí, đồng đội và Nhân dân; kết hợp lý luận với thực tiễn, kiến thức được học ở nhà trường với đơn vị… Đồng thời, cầu thị, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình của mọi người, đánh giá đúng ưu, khuyết điểm của bản thân, từ đó, có kế hoạch học tập, rèn luyện, tự tu dưỡng để không ngừng tự hoàn thiện mình.

Kết luận

Nâng cao chất lượng CTVĐĐ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay là nội dung quan trọng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng, của quân đội; nhằm tạo sự chuyển biến vững chắc về số lượng, cơ cấu, phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị và chức trách nhiệm vụ của CTVĐĐ trong từng giai đoạn cách mạng; góp phần quan trọng xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, đại đội vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Chú thích:
1, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập V. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 484 – 485, 309.
2. Sơ kết thực hiện Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 20/7/2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” từ năm 2025 đến nay. (Báo cáo số 567- BC/QUTW ngày 11/8/2014 của Quân ủy Trung ương), tr. 5.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, nhất là cấp chiến dịch, chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. (Nghị quyết số 109- NQ/QUTW ngày 11/02/2019 Quân ủy Trung ương), tr. 3.
5, 7. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 18/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
6. Tổng cục Chính trị. Tài liệu nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 – 2025 (Dùng cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Quân đội”. H. NXB Quân đội nhân dân, 2021, tr. 70.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập I. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 237.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập XI. H. NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, 2011, tr. 99.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 769-NQ/QUTW ngày 21/12/2012 của Quân ủy Trung ương về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013 – 2020 và những năm tiếp theo.
2. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới.
TS. Hoàng Mạnh Hưng
ThS. Bùi Quang Kha
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng