(Quanlynhanuoc.vn) – Sáng ngày 31/10, Khoa Hành chính học, Học viện Hành chính Quốc gia đã tổ chức Hội thảo khoa học “Quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam”. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải, Trưởng khoa Hành chính học và ông Lê Nguyễn Trường Giang, Viện trưởng Viện Chiến lược chuyển đổi số – Hội Truyền thông số Việt Nam đồng chủ trì Hội thảo.
Khách mời dự Hội thảo, có: TS. Trần Quang Diệu, Giám đốc Trung tâm ứng dụng công nghệ thông tin, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; ông Lê Thanh Tùng, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin, Bộ Nội vụ; GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển, nguyên Phó Giám đốc điều hành Học viện Hành chính Quốc gia; GS.TS. Phạm Hồng Thái, nguyên Trưởng khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Hoàng Thị Ngân, nguyên Vụ trưởng Vụ Tổ chức hành chính và Công vụ, Văn phòng Chính phủ; TS. Đinh Duy Hòa, nguyên Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ; TS. Tạ Ngọc Hải, nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.
Về phía Học viện Hành chính Quốc gia có các phó giám đốc: PGS.TS. Lương Thanh Cường (trực tuyến), TS. Lại Đức Vượng; lãnh đạo một số đơn vị thuộc, trực thuộc Học viện; các cán bộ, chuyên viên của Viện Chiến lược Chuyển đổi số; viên chức, học viên, sinh viên Khoa Hành chính học. Hội thảo được tổ chức trực tiếp và trực tuyến tới 3 phân viện Học viện tại TP. Hồ Chí Minh, Tây Nguyên và Thừa Thiên Huế.
Trình bày đề dẫn Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải nêu, trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số luôn là một chủ trương nhất quán của Đảng, là điều kiện tiên quyết, yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển kinh tế – xã hội quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đảng và Nhà nước ta coi chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập tới việc chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số trong các mục tiêu, quan điểm phát triển và đột phá chiến lược. Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị đã nhấn mạnh yêu cầu cấp bách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 của Chính phủ triển khai theo hướng chuyển đổi số một cách toàn diện với sự tham gia của người dân, cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan hành chính nhà nước.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành Chiến lược chuyển đổi số quốc gia, đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nhận thức chuyển đổi số song hành cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới và hiện nay việc chuyển dịch này diễn ra với tốc độ nhanh chóng theo 3 trụ cột: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Quá trình chuyển đổi số tạo tiền đề cho đổi mới hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức như yêu cầu cần phải hoàn thiện về thể chế, hạ tầng số, nền tảng số, năng lực của các công chức hành chính trong việc thiết kế, xây dựng và thực hiện các chính sách công. Chính vì vậy, việc xác định những giải pháp xây dựng quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả gắn liền với quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam là vấn đề cốt lõi, cần sự quan tâm nghiên cứu của các nhà hoạch định chính sách, các nhà thực tiễn và cộng đồng các nhà khoa học.
Trong bối cảnh đó, Hội thảo được tổ chức với mong muốn tạo ra một diễn đàn để các nhà khoa học và các nhà hoạt động thực tiễn cùng chia sẻ, trao đổi, luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả trong tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Lại Đức Vượng khẳng định, quản trị quốc gia trong thời kỳ chuyển đổi số là chủ đề quan trọng và có rất nhiều điều mới mẻ mà các nhà nghiên cứu hành chính cần quan tâm. Từ thay đổi toàn diện cơ chế, điều này được ví như được bắt đầu “từ nguyên, nhiên liệu mới tới người lái mới trên 1 xa lộ mới”, đây là cách tiếp cận hoàn toàn mới mà chuyển đổi số Học viện nói riêng và chuyển đổi số quốc gia nói chung đang tiếp cận và từng bước bắt đầu từ những cuộc Hội thảo như này.
Phó Giám đốc Lại Đức Vượng nhấn mạnh, quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả không còn là vấn đề mới mà vấn đề đặt ra ở đây là chúng ta cần tìm ra vai trò của các nhà khoa học về hành chính cần làm gì trong thời gian tới với thực tiễn từ Học viện với những đánh giá, nhận định từ những chuyên gia đầu ngành về chuyển đổi số nhằm xây dựng Hoc viện số thành công tiến tới chính phủ số, “quốc gia số” hiện đại, hiệu quả. Phó Giám đốc mong muốn các chuyên gia, các nhà khoa học tham dự Hội thảo sẽ có những chia sẻ, những đề xuất, giải pháp thẳng thắn, sát thực và mang tính thực tiễn cao về chuyển đổi số đáp ứng quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả, góp phần cho Hội thảo thành công tốt đẹp.
“Môi trường quốc gia trong chuyển đổi số” là nội dung tham luận của GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển. Tham luận tập trung làm rõ chủ thể “quản trị quốc gia” được biểu hiện như thế nào trong quá trình chuyển đổi số, từ đó xác định chủ nhân thực sự của tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay. Theo GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển, khi tiếp cận nội dung chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, thiết nghĩ cũng nên xác định chủ thể cho rõ, để qua đó thấy được, vậy ở đâu, những thiết chế nào chịu tác động khi tiến hành chuyển đổi số và đóng vai trò chủ thể trong tiến trình đó. Nói cách khác đề cập tới quốc gia, nghĩa là chỉ ra trong đó những thiết chế (trong quốc gia) tham gia thực hiện tiến trình chuyển đổi số. Chuyển đổi số là nội dung mang tính thay đổi phương thức, từ sự tác động (hay ứng dụng) công nghệ tới các thiết chế quản lý, các cá thể trong tổ chức và các hoạt động của xã hội. Theo biện chứng của sự phát triển, bên trong các thiết chế quản lý phải coi chuyển đổi số là sứ mệnh tự thay đổi để phát triển và thích ứng. Nghĩa là, quản trị hoạt động phải làm sao đưa được công cụ hiện đại nhất để thực hiện mọi hoạt động quản lý.
Bên cạnh đó, quản trị quốc gia khi xác định là một thuật ngữ có tính hệ thống, thì tiếp cận nó thiết nghĩ cũng cần có nguyên tắc định hướng. Theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển, có một số nguyên tắc cần nhận thức và quán triệt, cụ thể: (1) Nguyên tắc dân chủ: nguyên tắc dân chủ là sự tiếp cận nền tảng, vai trò thể chế đối với mỗi thiết chế trong hệ thống; (2) Nguyên tắc đồng thuận: đó là nhấn mạnh sự đồng thuận nhận thức của các chủ thể trong hệ thống quản trị quốc gia; (3) Nguyên tắc không mâu thuẫn: giữa khác biệt và đồng thuận. Khác biệt là thuộc tính (chức năng, vai trò xã hội); đồng thuận là mục đích, mục tiêu chung là phát triển xã hội trong hệ thống.
Từ những khái niệm và nguyên tắc đã nêu, GS.TS. Nguyễn Hữu Khiển đưa nêu ra sứ mệnh đặc biệt của Nhà nước trong quản trị quốc gia: (1) Nhà nước là chủ thể quyền lực sớm nhất, mang tính biểu tượng của quản trị đất nước như các thực thể có chủ quyền; (2) Nhà nước là thực thể quyền lực trong môi trường quản trị có chức năng bằng những định chế pháp lý tổng quát, dẫn dắt xã hội trong sự thống nhất cho mọi cá nhân và tổ chức. Đó là việc Nhà nước đặt ra luật lệ với các loại, các thứ bậc điều chỉnh khác nhau có tính hệ thống chặt chẽ; (3) Chỉ có Nhà nước với tư cách là bộ máy công quyền mới nhân danh chủ thể quốc gia trong nội trị và quan hệ quốc tế. Đó là do tính chất duy nhất đại diện của dân cư của một quốc gia mang lại; (4) Nhà nước là thực thể công quyền bảo đảm môi trường xã hội pháp lý, quyền lực cho sự ra đời và hoạt động của các chủ thể trong hệ thống quyền lực xã hội.
Ông Lê Nguyễn Trường Giang trình bày tham luận về “Đổi mới bộ máy quản trị nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu quả định hướng chính phủ số”. Tham luận tập trung vào 4 nội dung chính: chuyển đổi mô hình tổ chức nhà nước theo định hướng nền tảng; cải cách hành chính thông qua kiến trúc dữ liệu nền tảng; khung khổ ra quyết định dựa trên dữ liệu; kiến tạo mô hình quản trị quốc gia định hướng chính phủ số. Theo ông Trường Giang, kiến trúc nền tảng (platform architecture) là quan trọng nhất, đây là một kiến trúc mạng lưới, đồng bộ, đồng tâm cho phép đồng thời thực hiện được ba mục tiêu cấu thành hệ thống. Theo đó, các bộ phận, các cấu trúc của hệ thống phụ thuộc lẫn nhau hay liên hệ với nhau chặt chẽ đến mức bất kỳ một thay đổi ở một bộ phận nào cũng đều tạo ra thay đổi ở ít nhất một trong các bộ phận khác còn lại một cách tương ứng và phù hợp. Cho phép các bộ phận, các cấu trúc phụ thuộc lẫn nhau có khả năng kiến tạo các trạng thái cân bằng (equilibrium) động hay trạng thái đứng im, ổn định, trật tự trong các mối liên hệ lẫn nhau.
Nền hành chính nhà nước bao gồm 3 bộ phận cấu thành: (1) Tổ chức hệ thống hành chính với vai trò định hình chức năng, tức là nền hành chính phải bảo đảm đủ các bộ phận, cấu trúc để thực hiện các chức năng hành chính không thừa, không thiếu, có như vậy mới tạo thành một chỉnh thể, toàn thể; (2) Bộ máy hành chính có vai trò định hình cấu trúc tức là các đơn vị cấu thành bộ máy này phải tương thuộc với nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau và bảo đảm rằng mỗi sự thay đổi trong bộ máy hành chính cũng đều phải đi cùng với những sự thay đổi đồng bộ ở các đơn vị tương thuộc để bảo đảm tính hệ thống – đồng bộ – cộng hưởng của toàn bộ hệ thống như một chỉnh thể, toàn thể; (3) Hệ thống thủ tục hành chính đóng vai trò tiến trình. Nghĩa là, hệ thống thủ tục hành chính phải luôn bảo đảm tính liên thông cho phép các chu trình thủ tục hành chính có được sự thống nhất hạn chế sự thay đổi tối đa, bảo đảm các quy trình được quy định với sự ổn định cao và sự phối hợp giữa các khâu đoạn trong cùng một quy trình, giữa các quy trình và trong tổng thể các quy trình được thực hiện một cách trật tự, không thừa, không lặp, không thiếu trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Điều đó cho phép tạo ra một sự cân bằng động trong hệ thống.
Về kiến tạo mô hình quản trị quốc gia định hướng chính phủ số, ông Trường Giang cho biết, chính phủ số được hình thành cũng đồng thời dẫn đến sự thay đổi căn bản kiến trúc của chính phủ, hình thành nên những “luật chơi” mới” đòi hỏi phải có sự thay đổi tư duy từ tư duy truyền thống (analog thinking) sang tư duy số (digital thinking). “Người chơi mới” cũng sẽ được thiết lập giữa trên sự tương quan giữa các chủ thể trong các tiến trình thủ tục hành chính, đóng vai trò như những “nguồn quyền lực” và “ảnh hưởng” trong các tiến trình thủ tục. “Cách chơi mới” cũng được hình thành dựa trên nguyên lý hiệu quả đến từ sự chia sẻ (sharing) và hợp trội nhờ phép phức hợp (complex). Tuy nhiên, trong chính phủ số, việc liên thông, kết nối phải trở thành một cơ chế tự động, cho phép các hệ thống, các bộ phận có thể liên tục tối ưu hóa và tự động hóa được nhờ việc tìm kiếm các phép kết nối và phức hợp một cách hiệu quả nhất. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính phủ sẽ chuyển từ hoàn thành nhiệm vụ theo phân công, quy trình sang hoàn thành nhiệm vụ với tối thiểu quy trình thực thi và linh hoạt hình thành các quy trình giải pháp mới.
Tham luận tại Hội thảo, TS. Tạ Ngọc Hải chia sẻ vấn đề “Chuyển đổi năng lực của cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng đòi hỏi mới đặt ra từ tiến trình chuyển đổi số”. Để quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả cần thực hiện chuyển đổi số, theo đó năng lực cán bộ, công chức, viên chức cần được nhìn nhận lại, bổ sung mới. Chuyển đổi năng lực của cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng đòi hỏi mới đặt ra từ tiến trình chuyển đổi số, các yếu tố về kiến thức, trình độ chuyên môn, kỹ năng, kinh nghiệm làm việc của mỗi người có được từ quá trình đào tạo, bồi dưỡng, thực tế công tác để đưa vào áp dụng, sử dụng trong giải quyết công việc, nhiệm vụ theo chức trách được giao với hiệu suất tối ưu nhất và tốn ít thời gian, chi phí nhất. Cùng với việc làm mới những yếu tố đã có, theo TS. Tạ Ngọc Hải, cần bổ sung thêm năng lực mới đối với cán bộ, công chức, viên chức. Cụ thể là: năng lực số (Digital Ability) được hiểu là tập hợp các kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm và thái độ cho phép cán bộ, công chức, viên chức sử dụng công nghệ và hệ thống thông tin trên internet một cách tự tin, sáng tạo và có phê phán để thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao.
TS. Tạ Ngọc Hải đề xuất một số biện pháp làm mới, bổ sung phẩm chất, năng lực mới của cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng đòi hỏi đặt ra từ tiến trình chuyển đổi số, bao gồm: sửa đổi, bổ sung các quy định; đa dạng hóa các hình thức, nội dung tuyên truyền để nâng cao nhận thức, ý thức, năng lực số của cán bộ, công chức, viên chức; cán bộ, công chức, viên chức tự học tập để nâng cao nhận thức, ý thức, năng lực số; tổ chức các lớp bồi dưỡng để nâng cao năng lực số cho cán bộ, công chức, viên chức; đào tạo nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số.
TS. Hoàng Thị Ngân trao đổi nội dung “Cơ hội và thách thức của quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả trong tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam” tại Hội thảo. TS. Hoàng Thị Ngân quá trình chuyển đổi số và kết đạt được ban đầu của quá trình này đang tạo tiền đề cho đổi mới hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm thúc đẩy cải thiện cung cấp dịch vụ công và tính công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được, thách thức đặt ra với quản trị quốc gia hiệu lực, hiệu quả là không nhỏ do cơ sở dữ liệu quốc gia vẫn được đánh giá là triển khai chậm, mô hình triển khai giữa các cơ sở dữ liệu quốc gia chưa đồng bộ; vai trò của cơ sở dữ liệu quốc gia so với cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành, địa phương chưa rõ ràng. Phạm vi dữ liệu được quản lý tại trung ương chưa được xác định rõ nên các địa phương không thể chủ động xây dựng dữ liệu do e ngại sự chồng lấn. Hạn chế trong xây dựng, cập nhật, điều chỉnh các cơ sở dữ liệu quốc gia là yếu tố đi ngược với nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin của Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạch định chính sách phát triển kinh tế – xã hội, cải cách thủ tục hành chính và bảo vệ quyền lợi của cá nhân.
Với những cơ hội và thách thức đặt ra hiện nay với chuyển đổi số để quản trị quốc gia đạt được hiệu lực, hiệu quả, TS. Hoàng Thị Ngân nhấn mạnh, trong bối cảnh quản trị quốc gia hiệu quả, cần tăng cường sự tham gia, giám sát của xã hội, sự đánh giá của người dân bằng chỉ số hài lòng đối với hoạt động của đội ngũ công chức, nhất là người thi hành pháp luật.
TS. Trần Quang Diệu trình bày tham luận với chủ đề “Truyền thông chính trị trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay”. TS. Trần Quang Diệu nhấn mạnh, truyền thông chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc truyền tải chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để tạo sự đồng thuận và ủng hộ của người dân. Truyền thông chính trị là một quá trình để các giai cấp, đảng phái, nhà nước cung cấp thông tin, giải thích, thuyết phục người dân ủng hộ, tán thành và làm theo tư tưởng, các hoạt động của giai cấp, đảng phái, nhà nước trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Quá trình này làm cho người dân ủng hộ, tán thành chủ trương, đường lối, tư tưởng và hoạt động chính trị.
TS. Trần Quang Diệu nêu, trong bối cảnh chuyển đổi số, truyền thông chính trị đang từng bước chịu sự chi phối và thay đổi với các đặc điểm: (1) Truyền thông chính trị là một quá trình, trong bối cảnh chuyển đổi số, quá trình này bị tác động mạnh mẽ bởi các thiết chế truyền thông phải ứng phó với các thay đổi của phương tiện truyền thông; (2) Trong chuyển đổi số, các chủ thể tham gia vào hoạt động truyền thông chính trị cũng có sự thay đổi mạnh mẽ; (3) Quá trình trao đổi, hiểu và tiếp cận thông tin của các chủ thể tham gia vào quá trình truyền thông chính trị có sự khác biệt do địa vị và vai trò của nhà lãnh đạo và người dân là khác nhau; (4) Truyền thông chính trị được sử dụng bởi Đảng và Nhà nước trong quá trình phân tích, hoạch định và thi hành chủ trương, chính sách, đặc biệt là khối chính phủ; (5) Truyền thông chính trị là phương thức hiệu quả góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
TS. Trần Quang Diệu đưa ra một số giải pháp để tăng cường và nâng cao chất lượng hoạt động truyền thông chính trị ở Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay:
Thứ nhất, trong bối cảnh chuyển đổi số, thông tin, tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải tập trung chú trọng phản ánh việc vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam hiện nay, nhất là trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các phương tiện truyền thông, đặc biệt là truyền thông xã hội và truyền thông internet.
Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà lãnh đạo quyền cần thường xuyên chỉ đạo, quán triệt, nâng cao nhận thức của các cơ quan, đơn vị, đội ngũ cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của truyền thông chính trị. Phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên báo chí, truyền thông và không gian mạng.
Thứ ba, thường xuyên rà soát, xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và có các giải pháp quản lý truyền thông nói chung, truyền thông chính trị nói 142 riêng phù hợp với sự phát triển nhanh của internet, mạng xã hội trong tình hình mới.
Thứ tư, báo chí, truyền thông cần coi trọng, luôn kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; truyền bá, phát triển hệ giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; đồng thời, tiếp biến tinh hoa giá trị và các thành tựu mới của nhân loại.
Thứ năm, báo chí, truyền thông nắm vững vấn đề cần tuyên truyền đấu tranh và tăng cường đổi mới đa dạng hóa phương thức đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái, thù địch của các tổ chức, cá nhân phản động, cơ hội chính trị.
Tham luận tại Hội thảo, ông Lê Thanh Tùng trình bày kết quả triển khai chương trình, nhiệm vụ chuyển đổi số của Bộ Nội vụ trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp trong thời gian tới nhằm bảo đảm mục tiêu, yêu cầu đề ra. Ông Lê Thanh Tùng nêu, chuyển đổi số quốc gia được thực hiện trên 3 trụ cột chính: chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Theo ông, cần phát triển chính phủ số một cách tổng thể, toàn diện, phát huy kết quả đạt được, tập trung nguồn lực, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, cần cách làm đột phá, mang tính khác biệt, để cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu phát triển chính phủ điện tử vào năm 2021 và hình thành chính phủ số vào năm 2025.
Bên cạnh những chương trình, nhiệm vụ được nêu trong tham luận, ông Lê Thanh Tùng đã đưa ra 6 giải pháp chuyển đổi số để bảo đảm mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong thời gian tới:
(1) Thay đổi nhận thức của người đứng đầu chịu trách nhiệm trực tiếp về chuyển đổi số trong cơ quan, tổ chức, lĩnh vực, địa bàn mình phụ trách; tổ chức phổ biến, quán triệt chủ trương của Đảng, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền, người dân và doanh nghiệp về sự cần thiết và tính cấp thiết của chuyển đổi số. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ về chuyển đổi số với nghị quyết, chiến lược, chương trình hành động, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các cấp, các ngành;
(2) Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và chính quyền bốn cấp để triển khai chuyển đổi số, xây dựng chính phủ số; kiện toàn tổ chức, bộ máy, thiết lập mạng lưới đơn vị chuyên trách và nhân sự hỗ trợ triển khai từ trung ương đến địa phương với nòng cốt gồm các đơn vị chuyên trách về công nghệ thông tin của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
(3) Phát triển hạ tầng số, phát triển và vận hành hạ tầng mạng chuyên dùng ổn định, an toàn, thông suốt, kết nối 4 cấp hành chính từ trung ương đến cấp xã. Triển khai Trung tâm dữ liệu phục vụ chính phủ số tại bộ, ngành, địa phương theo hướng sử dụng công nghệ điện toán đám mây, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ chuyên nghiệp;
(4) Phát triển nền tảng số; phát triển các cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ ứng dụng, dịch vụ chính phủ số trong nội bộ của bộ, ngành, địa phương, bảo đảm không trùng lặp, cập nhật, kết nối, chia sẻ với các cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia theo yêu cầu và thông qua nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia;
(5) Triển khai bảo đảm an toàn thông tin mạng theo mô hình bốn lớp theo chiều sâu với việc kiện toàn lực lượng tại chỗ; thuê lực lượng giám sát, bảo vệ chuyên nghiệp;
(6) Đưa nội dung phổ cập kỹ năng số và an toàn, an ninh mạng dựa trên các nền tảng mở, phần mềm nguồn mở để bồi dưỡng các kỹ năng cần thiết về chuyển đổi số. Tổ chức bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ lãnh đạo; kiến thức, kỹ năng số, kỹ năng phân tích và xử lý dữ liệu cho cán bộ, công chức, viên chức hàng năm để sẵn sàng chuyển đổi môi trường làm việc sang môi trường số.
Với tham luận “Quản lý nhà nước về phát triển kinh tế số ở Việt Nam – cơ hội, thách thức và một số giải pháp”, TS. Nguyễn Ánh Hè cho biết, kinh tế số Việt Nam đang có sự phát triển khá nhanh, mang lại những đóng góp quan trọng cho kinh tế của đất nước. Phát triển kinh tế số được xem là sự dịch chuyển thông minh và tạo ra động lực tăng trưởng mới của Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu, phát triển kinh tế số ở Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức, rào cản không nhỏ; theo đó cần có những giải pháp về quản lý nhà nước để tạo ra dư địa cho tăng trưởng kinh tế và tận dụng được những cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0 trong thời gian tới.
Thứ nhất, tạo sự thay đổi và nâng cao nhận thức về chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong toàn xã hội. Đẩy mạnh công tác quảng bá, tuyên truyền, vận động trong toàn xã hội, trên các phương tiện thông tin đại chúng, ở các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị về ý nghĩa, tầm quan trọng về chuyển đổi số để tạo được sự chuyển đổi mạnh mẽ về nhận thức, nâng cao nhận thức, hiểu biết về chuyển đổi số trong xã hội;
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện thể chế khung khổ pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi và động lực đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số;
Thứ ba, đẩy mạnh phát triển hạ tầng số. Phát triển hệ thống hạ tầng số quốc gia một cách đồng bộ, rộng khắp bảo đảm đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin, các chức năng về giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn mạng;
Thứ tư, phát triển, nâng cao tiềm lực khoa học – công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực đổi mới sáng tạo quốc gia;
Thứ năm, thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp, phát triển các nền tảng số trong các ngành, lĩnh vực kinh tế;
Thứ sáu, bảo đảm an ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao.
Hội thảo cũng được nghe nhiều ý kiến trao đổi, phản biện từ các nhà lãnh đạo, quản lý hành chính, quản lý nhà nước về các nội dung đã nêu tại Hội thảo bên cạnh 37 tham luận in kỷ yếu. Kết luận Hội thảo, PGS.TS. Nguyễn Thị Hồng Hải cảm ơn các nhà khoa học, các chuyên gia về chuyển đổi số, quản trị đã có tham luận, ý kiên tại Hội thảo. Các ý kiến tập trung làm rõ khái niệm quản trị quốc gia, nêu lên quản trị quốc gia không phủ nhận và không đối lập hoàn toàn với quản lý nhà nước mà nó phát triển trên tổng thể nền tảng quản lý nhà nước, duy trì những hoạt động mà quản lý nhà nước vẫn đang làm từ trước đến nay. Quản trị quốc gia tập trung nhấn mạnh vào đa dạng hóa các chủ thể để phát huy được các nguồn lực quốc gia một cách toàn diện, hiệu quả nhất.
Trong tiến trình quản trị quốc gia, vai trò của chuyển đổi số và sự chuyển đổi thành công của chuyển đổi số ở Việt Nam có ý nghĩa rất lớn với quản trị quốc gia vì chuyển đổi số đã thay đổi phương thức hoạt động của nền quản trị quốc gia từ ban hành thể chế, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản trị, tăng cường tính minh bạch, dự tham gia của người dân trong mọi hoạt động của Nhà nước. Từ những tham luận, ý kiến tâm huyết, có giá trị cao tại Hội thảo và kỷ yếu, Ban Tổ chức Hội thảo sẽ tổng hợp và tiếp thu và phát triển đầy đủ, hiệu quả, góp phần tham vấn, hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả trong tiến trình chuyển đổi số ở Việt Nam, đồng thời, giúp nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên Khoa Hành chính học nói riêng và Học viện Hành chính Quốc gia nói chung.
Kết thúc chương trình Hội thảo, đại diện Viện Chiến lược Chuyển đổi số ông Lê Nguyễn Trường Giang đã tặng cuốn sách “Thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia” tới các đại biểu tham dự Hội thảo.