Thương mại điện tử và thanh toán điện tử tại Việt Nam

(QLNN) – Ngày nay, thương mại điện tử (TMĐT) được phát triển rộng rãi vì những lợi ích của nó mang lại như giảm chi phí giao dịch, chi phí sản xuất, bán hàng, tiếp thị, mở rộng thị trường, cập nhật các thông tin về thị trường, khách hàng và đối tác, giúp khách hàng có nhiều lựa chọn hàng hoá và giá cả. Bên cạnh những lợi ích đó, sở dĩ TMĐT phát triển được còn do có sự hỗ trợ trong thanh toán điện tử (TTĐT). 

Thương mại điện tử

Theo nghĩa rộng, TMĐT là việc sử dụng các phương tiện điện tử để trao đổi thương mại và các bên tham gia không nhất thiết phải gặp gỡ nhau hoặc biết nhau trước.

Thành phần tham gia TMĐT đó là các doanh nghiệp, người tiêu dùng và chính phủ. Tuy nhiên, giao dịch TMĐT chủ yếu là giữa các doanh nghiệp với nhau.

TMĐT thường được chia thành các nhóm sau:

Giữa các doanh nghiệp với người tiêu dùng (Business – to Consumer – B2C hoặc Consumer to Business- C2B): đây là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng qua các phương tiện điện tử với mục đích giúp người tiêu dùng có thể mua hàng tại nhà mà không cần tới cửa hàng. Hình thức này được áp dụng rộng rãi với nhiều mô hình kinh doanh đa dạng. Các hàng hoá được bán chủ yếu là hàng hoá có độ tin cậy về chất lượng gắn liền với thương hiệu tín nhiệm và có chủng loại phong phú. Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán hàng hóa, dịch vụ tới người tiêu dùng, còn người tiêu dùng thông qua các phương tiện điện tử để lựa chọn, mặc cả, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng. Giao dịch này tuy chiếm tỷ trọng ít (khoảng 10%) trong TMĐT, nhưng có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn.

Để tham gia hình thức kinh doanh này, thông thường doanh nghiệp sẽ thiết lập website, hình thành cơ sở dữ liệu về hàng hoá, dịch vụ; tiến hành các quy trình tiếp thị, quảng cáo, phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng. TMĐT của giao dịch này đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Doanh nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng do không cần phòng trưng bày hay thuê người giới thiệu bán hàng, chi phí quản lý cũng giảm hơn. Người tiêu dùng sẽ cảm thấy thuận tiện vì không phải tới tận cửa hàng, có khả năng lựa chọn và so sánh nhiều mặt hàng cùng một lúc.

Giữa các doanh nghiệp với nhau: (Business to Business- B2B): đây là loại giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp trong việc trao đổi dữ liệu, mua bán, thanh toán hàng hoá và dịch vụ với mục đích cuối cùng là đạt được hiệu quả cao trong sản xuất, kinh doanh.

Giao dịch này là giao dịch quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trên Internet. Các giao dịch này chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống ứng dụng TMĐT nhằm mục đích chào hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký hợp đồng và thanh toán qua hệ thống này. Loại B2B đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như giảm các chi phí thu thập thông tin, quảng cao, đàm phán, tăng các cơ hội kinh doanh.

Giữa doanh nghiệp với cơ quan thuộc Chính phủ: (Business to Government- B2G hoặc Government to Business- G2B): là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước, trong đó cơ quan nhà nước đóng vai trò khách hàng.

Mục đích của giao dịch này là (1): mua sắm Chính phủ theo kiểu trực tuyến,; (2) các mục đích quản lý như thuế, hải quan (3) thông tin. Quá trình trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước được tiến hành qua các phương tiện điện tử. Cơ quan nhà nước cũng có thể thiết lập những website tại đó đăng tải thông tin về nhu cầu mua hàng của các cơ quan nhà nước, tiến hành việc đấu thầu hàng hoá, dịch vụ và lựa chọn nhà cung cấp trên website. Điều này một mặt giúp tiết kiệm các chi phí tìm nhà cung cấp, đồng thời giúp tăng cường tính minh bạch trong hoạt động mua sắm công.

Giữa người tiêu dùng – Chính phủ (Consumer to Government- C2G hoặc Government to Consumer – G2C): đây là loại hình giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân. Các giao dịch chủ yếu mang tính hành chính, nhưng có thể mang những yếu tố của TMĐT. Ví dụ, khi người dân đóng tiền thuế qua mạng, trả phí khi đăng ký hồ sơ trực tuyến…

Các giao dịch của Chính phủ còn được gọi là Chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử sử dụng công nghệ Internet và TMĐT để thông tin và cung cấp các dịch vụ công cộng đến cho người dân, các đối tác kinh doanh, các nhà cung cấp… Việc ứng dụng TMĐT của Chính phủ là một động lực và đòn bẩy quan trọng để thúc đẩy TMĐT và công nghệ thông tin.

Chính phủ điện tử mang lại nhiều lợi ích cho Chính phủ, cụ thể là: nâng cao hiệu quả trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ; chính quyền trở nên minh bạch hơn; tạo nhiều cơ hội hơn để các công dân phản hồi đến các cơ quan của Chính phủ và tham gia vào các tổ chức và quá trình dân chủ; tạo điều kiện thay đổi mối quan hệ giữa các cấp chính quyền và công dân.

Chính phủ – Chính phủ (Government to Government- G2G): là việc sử dụng các công cụ điện tử để giao dịch giữa Chính phủ của quốc gia này với các quốc gia khác.

TMĐT gồm các giao dịch có hợp đồng và không có hợp đồng. Đối với giao dịch có hợp đồng, do đặc thù của giao dịch điện tử, hợp đồng TMĐT có một số điểm khác so với hợp đồng thông thường như: địa chỉ pháp lý của các bên: ngoài địa chỉ địa lý còn địa chỉ email, mã doanh nghiệp kèm theo các văn bản và ảnh miêu tả sản phẩm; trong đó quy định rõ  trách nhiệm về các sai sót trong văn bản hoặc ảnh chụp.

Có các xác nhận điện tử về giao dịch, quyền truy cập, vấn đề cải chính thông tin điện tử và cách thực thi quyền này. Có các quy định đảm bảo rằng các giao dịch điện tử được coi là chứng cứ pháp lý về bản chất và ngày tháng thực hiện giao dịch. Có các quy định chi tiết về phương thức TTĐT. Quy định về trung gian đảm bảo chất lượng (nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng).

TMĐT mang lại những lợi ích to lớn, đó là:

Trên cơ sở có được những thông tin phong phú về thị trường, pháp luật, nhờ đó doanh nghiệp xây dựng được các chiến lược sản xuất, kinh doanh phù hợp với nhu cầu của thị trường. Đối với người tiêu dùng, họ có thể so sánh, lựa chọn được các hàng hoá có giá cả và chất lượng phù hợp với nhu cầu của họ.

Giảm chi phí như chi phí sản xuất (chi phí văn phòng, tìm kiếm chuyển giao tài liệu…), chi phí bán hàng và tiếp thị (việc bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catelogue điện tử), chi phí giao dịch.

Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác bởi các thành phần tham gia (doanh nghiệp, người tiêu dùng, chính phủ) có thể giao tiếp liên tục với nhau gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian, do đó sự hợp tác và quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục. Các bạn hàng, cơ hội kinh doanh mới được phát hiện liên tục không chỉ trên phạm vi quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế mang lại nhiều lựa chọn hơn.

Thanh toán điện tử

TTĐT là hình thức thanh toán được tiến hành trên internet, thông qua hệ thống TTĐT, người sử dụng mạng có thể tiến hành các hoạt động thanh toán, chi trả, chuyển tiền, …

TTĐT được sử dụng khi chủ thể tiến hành mua hàng trên các siêu thị ảo và thanh toán qua mạng. Để thực hiện việc thanh toán, thì hệ thống máy chủ của siêu thị phải có được phầm mềm thanh toán trong website của mình. Đối với người tiêu dùng khi thực hiện TTĐT, họ cần sử dụng thẻ thanh toán. Trên thẻ thường gồm các thông tin về họ và tên chủ thẻ, số thẻ, thời hạn thẻ, chip điện tử hoặc vạch từ, mã số an toàn.

Để thực hiện giao dịch và thanh toán TMĐT, các bên tham gia thường thông qua sàn giao dịch TMĐT. Đây là một thị trường trực tuyến, được thực hiện trên mạng Internet mà tại đó, những người tham gia tiến hành tìm kiếm thông tin về thị trường và hàng hoá, tiến hành đàm phán giao dịch. Đây là một công cụ rất mạnh để bán và quảng cáo hàng hoá, tiết kiệm, cắt giảm được nhiều chi phí cho việc thuê cửa hàng, kho bãi, giúp tiếp cận và xử lý thông tin trực tiếp, nhanh chóng giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, giữa doanh nghiệp với khách hàng.

TTĐT có những ưu điểm cơ bản như sau: Hỗ trợ nguời tiêu dùng, nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong việc thanh toán; tiết kiệm thời gian và đơn giản hóa quá trình thanh toán; tính an toàn cao, đặc biệt là khi mua sắm các sản phẩm có giá trị như không phải mang theo số lượng tiền lớn, phòng ngừa rủi ro liên quan thanh toán tiền mặt; mất thẻ nhưng vẫn còn tiền do có sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan; các doanh nghiệp có thể bán các sản phẩm dịch vụ bất cứ khi nào khách hàng có nhu cầu mà không phụ thuộc vào thời gian, khoảng cách địa lý.

Bên cạnh đó, TTĐT cũng bộc lộ một số hạn chế, đó là: Nếu an ninh thanh toán của các ngân hàng chưa thực sự hoàn thiện sẽ tạo ra nhiều tiềm ẩn rủi ro cho người sử dụng dịch vụ TTĐT. Khó kiểm soát chi tiêu, đặc biệt đối với thẻ tín dụng.

Quy trình TTĐT trực tuyến. Người mua đặt lệnh mua trên website sau khi đã chọn hàng hoá. Người mua khai báo thông tin thẻ thanh toán của mình. Thông tin thẻ tín dụng của khách hàng được chuyển thẳng đến ngân hàng của người bán hoặc chuyển thẳng đến nhà cung cấp dịch vụ (bên thứ ba) xử lý thanh toán qua mạng mà người bán đã chọn.

Ngân hàng của người bán hoặc bên thứ ba sẽ kiểm tra tính hợp lệ của thẻ với ngân hàng nơi phát hành thẻ. Ngân hàng phát hành thẻ sẽ phản hồi (mã hoá) cho ngân hàng của người bán hoặc bên thứ ba về tính hợp lệ của thẻ. Thông tin được giải mã và gửi về cho người bán. Dựa trên thông tin phản hồi này, người bán sẽ quyết định bán hay không bán.

Thương mại điện tử và thanh toán thương mại điện tử ở Việt Nam

Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những quan tâm nhất định đến TMĐT do tầm quan trọng của nó trong thời đại mới. Cụ thể, một số văn bản pháp lý quan trọng trong TMĐT đã được ban hành như Luật Giao dịch điện tử, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực TMĐT đã tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai ứng dụng giao dịch điện tử trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo an ninh, an toàn cũng như độ tin cậy của các giao dịch điện tử, góp phần thúc đẩy ứng dụng TMĐT trong xã hội.

Quản lý các giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ tài chính góp phần giảm thiểu hậu quả xấu phát sinh trong giao dịch điện tử như trốn thuế, gian lận khi lập hóa đơn, chứng từ, hướng dẫn việc áp dụng Luật Giao dịch điện tử cho các hoạt động ngân hàng cụ thể, bảo đảm những điều kiện cần thiết về môi trường pháp lý để củng cố, phát triển các giao dịch điện tử an toàn và hiệu quả đối với hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, có rất nhiều khoá đào tạo, tập huấn kỹ năng giao dịch TMĐT và TTĐT đang được triển khai, hệ thống công nghệ thông tin luôn được đẩy mạnh ứng dụng, đầu tư và phát triển.

Mặc dù TMĐT ngày càng phát triển và trở nên phổ biến tại Việt Nam. Nhưng còn một bộ phận lớn người dân Việt Nam không tin tưởng vào chất lượng hàng hoá và dịch vụ được giao dịch qua mạng, đặc biệt nhiều người cho biết họ không an tâm khi sử dụng phương thức thanh toán trực tuyến để mua hàng do họ cảm thấy giao dịch trực tuyến đầy rủi ro và dễ bị lừa đảo hoặc họ không biết cách mua hàng trực tuyến. Hiện nay, vẫn còn một tỷ lệ lớn người tiêu dùng vẫn sử dụng thanh toán bằng tiền mặt khi mua hàng, đây chính là rào cản lớn nhất để TMĐT trở thành hấp dẫn hơn với người tiêu dùng.

Trong thời gian qua, mặc dù cơ sở hạ tầng và hành lang pháp lý cho thanh toán TMĐT có những tín hiệu tốt (hệ thống viễn thông Internet đã đảm bảo triển khai tốt các ứng dụng của TMĐT), nhưng thói quen mua sắm (thói quen thanh toán bằng tiền mặt) và còn thiếu giải pháp đồng bộ đã làm cho TMĐT vẫn còn một số vướng mắc ở khâu thanh toán (một số cổng thanh toán chỉ chấp nhận thẻ quốc tế như Master Card, Visa Card… nhưng không phải tất cả mọi người đều có loại thẻ này).

Hiện nay, có 3 phương thức thanh toán chính mà Việt Nam có nhu cầu ứng dụng:

Một là, phương thức TTĐT tại các điểm bán hàng bằng cách sử dụng thẻ ngân hàng, thẻ tín dụng…

Hai là, phương thức thanh toán trên Internet. Loại hình thanh toán này có thể thực hiện tại website dịch vụ của ngân hàng (gọi là dịch vụ eBanking) hoặc được tiến hành tại website của những doanh nghiệp cung cấp hàng hoá và dịch vụ, hoặc được tiến hành qua website trung gian của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thanh toán.

Ba là, thanh toán qua thiết bị di động, bao gồm điện thoại di động và những thiết bị cầm tay di động khác.

Trong thời gian qua, đối với TTĐT, ngân hàng vẫn giữ vai trò trung tâm trong việc cung cấp những dịch vụ ngân hàng trực tuyến, ngân hàng đóng vai trò kết nối giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng hoặc người mua hàng. Ngân hàng đã tạo điều kiện cho người tiêu dùng có thể sử dụng thẻ thanh toán như một công cụ thanh toán đa năng để phục vụ cho nhu cầu giao dịch TMĐT. Bên cạnh đó, ngân hàng đã cung cấp các tiện ích, các dịch vụ TTĐT để cho doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng có thể sử dụng tài khoản ở ngân hàng để phục vụ cho các nhu cầu thanh toán của mình.

Hiện nay, không chỉ các doanh nghiệp lớn mà cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang tham gia sâu rộng hơn các sàn TMĐT để nâng cao hình ảnh của mình trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Trong khi các doanh nghiệp lớn dành thời gian cho các hoạt động kinh doanh trực tiếp và vận hành riêng mạng lưới của mình thì các doanh nghiệp nhỏ, vốn yếu hơn về tài chính đã tham gia mạnh hơn vào các sàn giao dịch trực tuyến. Đây cũng sẽ là xu thế của TMĐT trong giai đoạn tới và các nhà cung cấp dịch vụ đang hướng tới các công cụ thanh toán tiện lợi và an toàn hơn để thu hút người tiêu dùng tham gia vào mạng lưới của mình.

Trong tương lai, điều kiện về bảo mật sẽ áp lực lớn đối với các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán khi họ đóng vai trò bảo đảm lợi ích cho cả người mua và người bán. Một lệnh giao dịch TTĐT sẽ đi từ người mua – người bán – ngân hàng – cổng thanh toán. Bất cứ nơi nào trên chặng đường này đều gặp rủi ro. Do vậy, cơ sở an toàn phải đi từ hệ thống hạ tầng, đường truyền cho đến các giải pháp quản lý cơ sở dữ liệu và bảo mật thông tin cho người dùng và bằng mọi cách để không thất thoát thông tin của khách hàng.

Nhu cầu cơ bản về bảo mật của một giao dịch phải từ bảo đảm thông tin cá nhân; các công cụ đối soát giữa người mua và người bán nhằm ghi nhận các chứng cứ về giao dịch. Trong khi tính xác thực về bảo mật cũng giúp cho nhà cung cấp ghi nhận lệnh điện tử tương tự như việc “đặt bút ký” để mua bán trong thực tế; đồng thời bảo đảm rủi ro cho doanh nghiệp và người dùng, bảo đảm được nội dung giao dịch không bị thay đổi trên suốt đường đi. Vì thế, rất cần một hạ tầng kỹ thuật vững chắc với các cơ sở quản lý rõ ràng. Việc bảo đảm an toàn không chỉ phòng chống tấn công từ bên ngoài mà còn bảo vệ dữ liệu ngay từ bên trong doanh nghiệp.

Như vậy, để có thể thực sự tham gia một cách hiệu quả, đóng góp thực tế vào việc nâng cao hiệu quả của hoạt động thương mại, vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá cần nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng TMĐT như cơ sở pháp lý, kinh tế, công nghệ thông tin, hạ tầng nhân lực cho TMĐT. Bên cạnh đó, để TMĐT phát triển, cần mở rộng những mô hình thanh toán trực tuyến làm vai trò trung gian kết nối người dùng với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng và đặc biệt, tuyên truyền cho người dân hiểu các lợi ích mà TTĐT mang lại.

TS. Nguyễn Thị Hồng Hải
GV. Đoàn Ngọc Thắng

Học viện Ngân hàng