Thách thức đối với quản trị nhà nước trong quá trình chuyển đổi số

(Quanlynhanuoc.vn) – Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông và sự tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, vấn đề chuyển đổi số đang đặt ra với các quốc gia với những cơ hội cũng như thách thức đối với tất cả các ngành, lĩnh vực, trong đó có quản trị nhà nước. Những thách thức đó đến từ nền tảng công nghệ, nguồn nhân lực và từ sự ít linh hoạt ở khu vực công. Những thách thức đối với quản trị nhà nước trong quá trình chuyển đổi số đòi hỏi cần có những giải pháp phù hợp để quản lý nhà nước thực sự thích ứng và có một diện mạo mới trong giai đoạn hiện nay.
Hội thảo khoa học quốc tế: “Quản trị nhà nước trong bối cảnh chuyển đổi số”
Chính phủ số và chuyển đổi số

Chính phủ điện tử là chính phủ tin học hóa quy trình đã có, cung cấp trực tuyến các dịch vụ hành chính công đã có. Chính phủ số là chính phủ chuyển đổi số (CĐS), đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi quy trình làm việc, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ, nhanh chóng cung cấp dịch vụ công mới. Một trong những thước đo chính của chính phủ điện tử là số lượng dịch vụ hành chính công trực tuyến. Còn một trong những thước đo chính của chính phủ số là số lượng dịch vụ hành chính công giảm đi, số lượng dịch vụ công mới, mang tính sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên, nhờ công nghệ số và dữ liệu1.

Chính phủ số dựa vào việc sử dụng và tái sử dụng các dữ liệu hoạt động, dữ liệu thống kê địa lý và phân tích nâng cao nhằm đơn giản hóa việc sử dụng các dịch vụ cho người dùng. Chính phủ số tạo ra thông tin từ dữ liệu để hỗ trợ và cải thiện quá trình ra quyết định và để tạo ra các dịch vụ công mới theo các mô hình mới, đồng thời tăng cường tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí vận hành trong dài hạn.

Có nhiều định nghĩa và cách hiểu về CĐS. Theo Gartner (Công ty nghiên cứu và tư vấn công nghệ thông tin có trụ sở tại Connecticut, Hoa Kỳ) CĐS là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới. Mô hình phát triển chính phủ số của Gartner có 5 giai đoạn (mức độ phát triển)2 sau:

(1) Giai đoạn mở đầu: chính phủ điện tử (E-Government). Các tổ chức được xem xét theo các tiêu chuẩn của chính phủ điện tử truyền thống.

(2) Giai đoạn phát triển mở: các chương trình chính phủ điện tử, chính phủ mở cùng tồn tại với sự ưu tiên khác nhau. Các sáng kiến chính phủ mở thường được thực hiện như chương trình độc quyền công khai nhằm thúc đẩy sự minh bạch, sự cam kết của người dân và “nền kinh tế dữ liệu”.

(3) Giai đoạn xác định: lấy dữ liệu làm trung tâm (Data-Centric); tập trung kích hoạt và tăng tốc việc CĐS. Chú trọng vào khách hàng,  kinh nghiệm người sử dụng, tập trung hoàn thiện, phát triển các dịch vụ thuận tiện hơn, hiệu quả hơn qua các kênh trực tuyến.

(4) Giai đoạn quản lý: kỹ thuật số hoàn toàn (Fully Digital). Nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng của cách tiếp cận lấy dữ liệu làm trung tâm và thường xuyên theo đuổi các cơ hội đổi mới dựa trên các nguyên tắc dữ liệu mở.

(5) Giai đoạn tối ưu hóa: thông minh (Smart). CĐS đã trở thành tiêu chuẩn. Tổ chức có thể tích cực theo đuổi việc xác định và phát triển các cơ hội chuyển đổi.

Từ góc độ cơ quan nhà nước (CQNN) cho thấy CĐS có thể được hiểu là hoạt động phát triển chính phủ số của các cơ quan trung ương và tương ứng với đó là hoạt động phát triển chính quyền số, đô thị thông minh của các cơ quan chính quyền các cấp ở địa phương. CĐS đối với CQNN tập trung vào phát triển hạ tầng số phục vụ các CQNN một cách tập trung, thông suốt; tạo lập dữ liệu mở dễ dàng truy cập, sử dụng, tăng cường công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số trong nền kinh tế; cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao, cả trên thiết bị di động để người dân, doanh nghiệp có trải nghiệm tốt nhất về dịch vụ, nhanh chóng, chính xác, không giấy tờ, giảm chi phí.

Về góc độ thể chế, CĐS vẫn còn thiếu các quy định pháp lý liên quan. Dù khuôn khổ pháp lý có những bước tiến nhất định với các luật, như: Luật Giao dịch điện tử năm 2005, Luật Công nghệ thông tin năm 2006, Luật Tần số vô tuyến điện năm 2009, Luật An ninh mạng năm 2018…, tuy nhiên, thể chế của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, sự chuẩn bị luôn ở thế bị động. Các vấn đề liên quan đến CĐS, trong từng ngành, lĩnh vực, các vấn đề về bảo mật thông tin vẫn đang là những vấn đề cần tiếp tục quan tâm đối với các CQNN. Thể chế chưa tạo ra tầm nhìn chung về CĐS ở đối với các CQNN, chưa gắn với xuất phát điểm ở mỗi ngành, lĩnh vực, địa phương để xây dựng lộ trình CĐS phù hợp.

Những thách thức đối với quản lý nhà nước trong quá trình chuyển đổi số

CĐS đối với các CQNN hiện nay, bên cạnh những thuận lợi cũng đang phải đối mặt với những thách thức.

Thứ nhất, thách thức về nền tảng công nghệ.

Công nghê, hạ tầng viễn thông của Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có chỉ số an toàn an ninh thông tin ở mức thấp, đặc biệt là ở khối doanh nghiệp. Dù có nhiều nỗ lực nhưng chúng ta cũng cần nhìn đúng sự thật về năng lực công nghệ của CQNN nói riêng và năng lực công nghệ của Việt Nam liên quan đến CĐS nói chung. Về năng lực công nghệ của CQNN dường như vẫn là vùng trũng trong năng lực công nghệ của quốc gia. Có thể thấy, thách thức nằm ở năng lực công nghệ trong nước còn chưa cao, chưa làm chủ được những công nghệ cốt lõi của CĐS. Hiện nay, chúng ta chủ yếu vẫn ứng dụng những công nghệ về CĐS đã được phát triển sẵn trên thế giới mà gần như chưa tự xây dựng được cho mình chương trình CĐS riêng.

Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019, chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đã được nâng hạng, tăng 10 bậc so với năm 2018 và xếp thứ 67/141 nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trụ cột trong chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam cần tiếp tục được cải thiện. Về thể chế, mức độ năng lực động trong kinh doanh, Việt Nam xếp thứ 89/141, đứng thứ bảy trong khối ASEAN. Về kỹ năng, thị trường, sản phẩm, thị trường lao động, năng lực đổi mới sáng tạo mặc dù có thứ hạng khác nhau (lần lượt xếp hạng 93, 79, 83, 76) trong 141 nền kinh tế nhưng chỉ đứng thứ bảy trong khối ASEAN3.

Thứ hai, thách thức từ nguồn nhân lực. Ở các địa phương, đặc biệt là các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa khó khăn về vị trí địa lý, không gian cần có tăng cường kết nối bằng CĐS thì lại đối mặt với nhiều thách thức hơn trên các phương diện về công nghệ, hạ tầng, nhân lực. Ngay ở các đô thị, khu vực phát triển thì mức độ sẵn sàng cho CĐS cũng không giống nhau.

Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức vẫn hình dung CĐS như một quá trình số hóa hồ sơ, tài liệu nhưng số hóa chỉ là  điều kiện cần cho quá trình CĐS. Thời gian qua, chất lượng nguồn nhân lực đã được cải thiện phần nào, chúng ta đã thu hút được nhiều nhà khoa học về nước phát triển các lĩnh vực mới, như công nghệ AI, mạng 5G…

Thứ ba, thách thức từ tính chất ổn định của các cơ quan tổ chức khu vực công.

Khu vực công luôn đưa lên hàng đầu về tính ổn định trong tổ chức và hoạt động, do đó tính linh hoạt, tính thay đổi có phần hạn chế. Chính vì vậy, trong phát triển công nghệ thông tin, trong liên kết mạng đòi hỏi từng bước phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển chung. Một trong những vấn đề đặt ra là an toàn, an ninh mạng. Bảo mật luôn là một thách thức lớn đối với các cơ quan, tổ chức nhà nước khi thực hiện hành trình CĐS và ứng dụng công nghệ mới. Nhiều cơ quan, tổ chức, nhiều lãnh đạo trong lĩnh vực quản lý nhà nước, an ninh, tài chính hay y tế luôn thận trọng lựa chọn ứng dụng công nghệ số, do những quan ngại về vấn đề an ninh bảo mật, quyền riêng tư.

Quản trị nhà nước trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – động lực cho quá trình chuyển đổi số

Thứ nhất, quản trị nhà nước (QTNN) trong cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư đòi hỏi phải là quản trị thông minh, kết nối, chia sẻ thông tin, chia sẻ tri thức. QTNN thông minh đòi hỏi thể chế thông minh, bộ máy thông tin, nhân lực, phương thức quản trị và giám sát thông minh… (nghĩa là QTNN phải thực sự đi đầu trong cuộc CMCN lần thứ tư). Các chủ thể quản trị quốc gia phải có khả năng xây dựng, tạo lập thể chế để tạo điều kiện cho phát triển, giải phóng năng lực sản xuất, kết nối doanh nghiệp trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu để tạo ra những thể chế có thể xây dựng những sáng tạo công nghệ mới. Điều này đòi hỏi QTNN phải thực sự nhạy bén với sự phát triển của khu vực và thế giới. Các quyết sách đưa ra cần dựa trên hệ thống tri thức, cơ sở dữ liệu đủ mạnh và đáng tin cậy.

Thứ hai, QTNN cần tập trung vào việc tạo ra động lực cho phát triển. Động lực phát triển trong cuộc CMCN lần thứ tư là tri thức, khoa học – công nghệ, sáng tạo và đổi mới. QTNN phải tập trung nguồn lực để tạo ra sự bứt phá trong những lĩnh vực này. Chính vì vậy, Nhà nước cần đổi mới chính sách về khoa học – công nghệ, chính sách giáo dục và đào tạo, phải đổi mới đúng hướng hiện đại hóa của nền giáo dục nhằm đào tạo ra đội ngũ lao động có đủ tri thức và kỹ năng thích ứng với thời đại mới.

Thứ ba, QTNN cần năng động hơn, tích cực hơn và chủ động hơn. Mỗi quốc gia đang đứng trước những cơ hội và không ít những thách thức do cuộc CMCN lần thứ tư mang đến. Để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, mỗi quốc gia phải thực sự chủ động và tích cực trong hành động, nhạy bén trong tư duy nhằm nắm bắt cơ hội phát triển CĐS của thời đại. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, đòi hỏi các chủ thể QTNN phải đưa ra quyết định nhanh hơn với quyết tâm chính trị cao hơn. Mỗi quyết sách trong thực hiện đều có những độ trễ nhất định, do đó, QTNN trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư phải giảm tối đa độ trễ đó, giúp cho các quyết sách sớm trở thành hiện thực.

Thứ tư, cuộc CMCN lần thứ tư tạo sức ép lên các chủ thể QTNN. Người dân, doanh nghiệp, các tổ chức mong muốn tham gia nhiều hơn vào quá trình hoạch định và thực thi chính sách, mong muốn các hoạt động của cơ quan công quyền phải được thực hiện  minh bạch hơn và lắng nghe nhiều hơn. Điều này đòi hỏi các chủ thể QTNN phải đổi mới tư duy và phương thức quản trị để thích ứng và đáp ứng được sự kỳ vọng của người dân.

Thứ năm, QTNN phải sẵn sàng có những giải pháp giảm sốc từ những tác động tiêu cực của cuộc CMCN lần thứ tư mang đến. Vấn đề thất nghiệp sẽ gia tăng khi tự động hóa tăng lên. Cơ hội việc làm mở ra với một nhóm cá nhân nhưng có thể đóng lại với nhóm cá nhân khác. Khoảng cách giàu – nghèo sẽ có xu hướng tăng lên… Những điều này đòi hỏi QTNN cần có những giải pháp cụ thể.

Thứ sáu, QTNN phải giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống. Cuộc CMCN lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ đã làm cho biên giới địa lý giữa các quốc gia trở nên “mềm” hơn, dễ vượt qua hơn; internet đã tạo ra một “thế giới ảo” với các xa lộ thông tin toàn cầu, hoàn toàn không còn biên giới ngăn cách… Vấn đề an ninh thông tin, sở hữu trí tuệ, công nghệ sẽ càng trở nên gay gắt hơn và QTNN phải là chủ thể quan trọng nhất trong việc nhận biết và giải quyết các vấn đề này một cách hiệu quả.

Giải pháp chuyển đổi số trong quản trị nhà nước

Một là, cần tạo ra nhận thức đúng về CĐS trong hệ thống CQNN, cộng đồng xã hội. Trước hết, các ngành, lĩnh vực, địa phương cần có sự nhận thức đầy đủ về CĐS tác động như thế nào đến ngành, lĩnh vực, địa phương mình đang quản lý. Các cơ quan quản lý nhà nước hơn ai hết phải hiểu rõ những thời cơ và thách thức đặt ra trong công cuộc CĐS. Cần tạo ra sự chủ động, sẵn sàng CĐS trong cả hệ thống CQNN. Trên quy mô quốc gia, CĐS ảnh hưởng ngày càng lớn đến tăng trưởng GDP, năng suất lao động và cơ cấu việc làm. Theo nghiên cứu của Microsoft và IDG tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương năm 2017, các sản phẩm và dịch vụ số đóng góp 6% GDP, tỷ lệ này sẽ tăng lên 25% vào 2019 và 60% vào 2021; CĐS thúc đẩy năng suất lao động tăng 15% năm 2017, năm 2020 là 21%; 85% công việc trong khu vực sẽ bị biến đổi trong 3 năm tiếp theo4.

Hai là, cần đổi mới tư duy QTNN để thích ứng với yêu cầu CĐS. QTNN trong giai đoạn hiện nay cần hướng đến mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia về sáng tạo, đổi mới, về trình độ khoa học – công nghệ. Tư duy quản trị dựa vào các nguồn lực và mô hình phát triển truyền thống sẽ gặp nhiều trở ngại và khó khăn khi hội nhập quốc tế. Do đó, nếu không có những giải pháp kịp thời và hiệu quả để nâng tầm quản trị của mình thì Việt Nam sẽ rất khó thích ứng được với môi trường quản trị toàn cầu hiện nay và khó nâng cao được năng lực cạnh tranh toàn cầu.

Cần đổi mới tư duy và phương thức QTNN dựa trên nền tảng công nghệ kỹ thuật cao, bảo đảm minh bạch hóa hoạt động quản lý nhà nước, xây dựng mô hình chính quyền thông minh, chính quyền điện tử trong cung cấp dịch vụ công trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi, rút ngắn thời gian giải quyết công việc của người dân.

Ba là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thế hệ 4.0 có tri thức và tầm nhìn thời đại. Đội ngũ cán bộ, công chức cần có tư duy QTNN mới, có khả năng nhận diện và giải quyết các vấn đề mới phát sinh trong QTNN từ tác động của yêu cầu CĐS và những vấn đề cũ đã có những thay đổi do CĐS mang lại. Cán bộ, công chức cần có khả năng tổng hợp thông tin, khai thác hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản trị, cán bộ, công chức trở thành một điểm kết nối tri thức trong xã hội thông tin, trong mạng lưới dữ liệu QTNN.

Bốn là, xây dựng mô hình QTNN năng động dựa trên nền tảng công nghệ, tăng cường sự đối thoại giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp, người dân. Điều này cho phép cơ quan quản lý nhà nước có thông tin đầy đủ hơn về hiện trạng lĩnh vực quản lý, điều hành, những mong muốn, kỳ vọng của cộng đồng xã hội, cộng đồng doanh nghiệp để đưa ra những chính sách phù hợp hơn, khả thi hơn, khắc phục các độ trễ chính sách không đáng có.

Chú thích:
1. Điểm khác nhau giữa chính phủ điện tử và chính phủ số là gì? https://www.quangnam.gov.vn, ngày 27/3/2021.
2, 4. Nghiên cứu của Gatuner về mô hình mức độ trưởng thành của chính phủ số. https://aita.gov.vn, ngày 09/10/2019.
3. Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2019 của Diễn đàn kinh tế thế giới.
Tài liệu tham khảo:
1. Học viện Hành chính Quốc gia. Tài liệu bồi dưỡng ngạch chuyên viên cao cấp, 2020.
2. Thomas M. Siebel. Chuyển đổi số – Digital Transformation. NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2021.
3. Chuyển đổi số: Bối cảnh và thách thức. http://tapchinganhang.gov.vn, ngày 06/3/2020.
4. Nghiên cứu của Gartner về mô hình mức độ trưởng thành của chính phủ số. https://aita.gov.vn, ngày 09/10/2019.
PGS.TS. Ngô Thành Can
TS. Đoàn Văn Dũng
Học viện Hành chính Quốc gia