Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

(Quanlynhanuoc.vn) – Đoàn kết tôn giáo là một trong những nội dung đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. Tư tưởng của Người về công tác tôn giáo là hướng tới mục tiêu tạo sự đoàn kết giữa người có đạo và người không có đạo cũng như đoàn kết đồng bào có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Luận giải vấn đề này có ý nghĩa sâu sắc trong quán triệt và thực hiện có hiệu quả quan điểm, đường lối, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là nhận diện và đấu tranh với âm mưu lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam.
Ảnh minh họa (Tài liệu ảnh, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn giáo được xây dựng trên cơ sở vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin để nhận thức một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc về đặc điểm lịch sử, văn hóa Việt Nam – đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo; các tôn giáo tồn tại đan xen, hòa đồng, gắn bó và đồng hành cùng dân tộc, nhưng cũng thường xuyên bị các thế lực ngoại xâm, phản động lợi dụng. Tư tưởng của Người về tôn giáo có nội dung rất phong phú, có thể được khái quát thành một số điểm chính như sau:

(1) Mối quan hệ đồng hành, gắn bó giữa tôn giáo với dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, tôn giáo là một thành tố của văn hóa, do vậy, không chỉ mang bản chất nhân đạo, nhân văn mà còn thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc. Không chỉ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh, đồng bào tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Theo Người, đồng bào có tôn giáo hay không có tôn giáo đều giàu lòng yêu nước và đều bị chế độ thực dân, phong kiến thống trị, bóc lột nặng nề. Đấu tranh giải phóng dân tộc là nhằm làm cho tôn giáo được tự do và khi nước nhà độc lập, tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) thì tôn giáo vẫn tiếp tục đồng hành cùng dân tộc. Từ đó, Người đề cao tinh thần khoan dung tôn giáo và luôn khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc và CNXH.

(2) Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Nhân dân.

Trong các vǎn bản quan trọng cũng như Sắc lệnh mà Người trực tiếp tuyên bố và soạn thảo, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, sự nghiệp giải phóng dân tộc nhằm mục tiêu cao nhất là đem lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, trong đó có tự do TNTG. Bởi vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn nhất quán cả trong tư tưởng và hành động là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do TNTG của Nhân dân. Năm 1945, chỉ một ngày sau khi nước nhà độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết”1.

Sau khi miền Bắc được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo soạn thảo và ký ban hành Sắc lệnh số 234/SL ngày 14/6/1955 về vấn đề tôn giáo, quy định chi tiết, cụ thể về quyền tự do TNTG của Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề ra cách thức, giải pháp để hiện thực hóa quyền này trong đời sống xã hội. Người chỉ đạo: Các cấp ủy phải thật sự quan tâm đến phần đời và phần đạocủa đồng bào, “làm cho đồng bào Công giáo vừa ấm no, vừa giữ trọn đạo2, vì “phần xác” có được ấm no thì “phần hồn” mới thong dong. Đồng thời, Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thật sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng; tránh xúc phạm đến đức tin cũng như phong tục, tập quán của đồng bào.

(3) Tư tưởng về đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc.

Tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Người đã được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị vǎn hóa truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước, cũng như tiếp thu những tinh hoa vǎn hóa của nhân loại, đồng thời, vận dụng nó một cách sáng tạo vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nước ta. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết tôn giáo nằm trong chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết tôn giáo trước hết phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc. Đoàn kết tôn giáo còn bao hàm đoàn kết giữa đồng bào các tôn giáo khác nhau và đoàn kết đồng bào trong nội bộ từng tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc. Để thực hiện đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải tôn trọng quyền tự do TNTG, tôn trọng sự khác biệt; đồng thời, phát huy những điểm tương đồng, trong đó mẫu số chung là lợi ích của quốc gia, dân tộc và quyền lợi chính đáng của Nhân dân.

(4) Phát huy giá trị tích cực của tôn giáo phục vụ sự nghiệp cách mạng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo lý tôn giáo chân chính dù khác nhau, nhưng luôn đề cao tính nhân đạo, hướng thiện. Người cũng rất mực đề cao nhân cách, sự đóng góp của các vị sáng lập tôn giáo đối với sự tiến bộ của nhân loại và khuyến khích đồng bào các tôn giáo học tập, noi theo. Với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trân trọng và đánh giá cao vai trò của họ trong tổ chức tôn giáo, đồng thời, động viên họ thực hiện tốt việc nêu gương sáng, sống tốt đời, đẹp đạo và tuyên truyền vận động quần chúng tín đồ cùng thực hiện.

(5) tưởng kiên quyết chống lợi dụng tôn giáo và bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan.

Cùng với bảo đảm quyền tự do TNTG, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, phải kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch; “bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt tôn giáo đã phản Chúa, phản nước3. Người vạch rõ ranh giới giữa một bên là đồng bào tôn giáo chân chính yêu nước với bên kia là những kẻ “giáo gian” vì cam tâm làm tay sai cho giặc, hại nước, phản Chúa. Người còn lưu ý, trong đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo phải kiên quyết với kẻ thù, nhưng phải có thái độ khoan dung với những người dân do hoàn cảnh xô đẩy hoặc bị lừa mị mà lầm đường lạc lối. Đối với những người biết hối cải, Người chủ trương mở rộng vòng tay chào đón và họ “sẽ được hoan nghênh rộng rãi như những người con đi lạc mới về4.

Mặt khác, Người khẳng định, trong quá trình xây dựng xã hội mới cần bài trừ tệ mê tín dị đoan, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu để Nhân dân có cuộc sống ngày càng văn minh. Muốn vậy, trước hết phải phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng văn hóa mới, giữ vững thuần phong mỹ tục, thực hiện đời sống mới. Đồng thời, phải thường xuyên tuyên truyền, phổ biến thường thức khoa học, từ đó, giúp quần chúng nhân dân nhận thức được tác hại của hủ tục lạc hậu và nạn mê tín dị đoan. Việc tuyên truyền vận động phải khéo léo, tế nhị, “dần dần nói cho người ta hiểu, để người ta vui lòng làm, chứ không có quyền ép người ta5.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo ở Việt Nam

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, nhận thức đối với tôn giáo của Đảng ta nhìn chung là đúng đắn nhưng do điều kiện khách quan và những lý do chủ quan, việc nhận thức về tôn giáo trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có lúc chưa đầy đủ, còn đơn giản, phiến diện.

a. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tôn giáo trong thời kỳ đổi mới

Trong khi khẳng định tính toàn diện, tính đồng bộ của quá trình đổi mới, Đại hội VI của Đảng cũng coi việc đổi mới tư duy lý luận về CNXH là khâu đột phá. Theo quan điểm chỉ đạo đó, chúng ta cũng đã thực hiện đổi mới nhận thức trong lĩnh vực TNTG: TNTG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đó là một nhận định mang tính khoa học và tính cách mạng sâu sắc, nó phản ánh đúng tính tất yếu khách quan trong sự tồn tại của tôn giáo. “Nhu cầu tinh thần” đó là một lợi ích thiết thân của bộ phận quần chúng có đạo mà Đảng và Nhà nước phải chủ động quan tâm chăm lo, bảo đảm.

Thành tựu đổi mới tư duy trên lĩnh vực tôn giáo còn khẳng định, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Đây là một nhận định mang tính đổi mới rất sâu sắc của Đảng ta. Xuất phát từ tư duy mới đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) đã nhấn mạnh: “khuyến khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện,… trong tôn giáo”. Những thành quả đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức này là cơ sở để hoạch định các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với TNTG trong giai đoạn mới.

Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Đảng ta đã xác định 3 quan điểm chỉ đạo quan trọng trong công tác tôn giáo (CTTG) là: (1) Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. (2) TNTG là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. (3) Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”. Nghị quyết này được xem như dấu mốc thể hiện sự phát triển quan điểm của Đảng trong tình hình mới.

Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, thông báo…, về tôn giáo và CTTG. Cụ thể, lần đầu tiên vào ngày 12/3/2003, tại Hội nghị Trung ương bảy (khóa IX), Đảng đã đề ra một nghị quyết riêng về CTTG (Nghị quyết số 25-NQ/TW). Nghị quyết xác định những quan điểm, chính sách đối với tôn giáo, đề ra nhiệm vụ, các giải pháp chủ yếu và tổ chức thực hiện CTTG. Nghị quyết là sự tiếp tục quá trình đổi mới tư duy của đảng viên trên lĩnh vực tôn giáo. Trong Nghị quyết số 25-NQ/TW đã nêu 5 quan điểm và chính sách, trong đó có sự tái khẳng định những quan điểm trước đó có một số điểm mới được bổ sung:

Một là, TNTG là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.

Ở đây, Đảng đã đề cập hai mối quan hệ biện chứng giữa tôn giáo với dân tộc và tôn giáo với CNXH. Về mối quan hệ giữa tôn giáo với CNXH, qua thực tiễn cách mạng, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do, ở Việt Nam cũng vậy”6. Người còn nói thêm: người cộng sản tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH không những không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo. Lý tưởng xây dựng xã hội của những người cộng sản có sự trùng hợp nhất định với hoài bão của những nhà sáng lập ra các tôn giáo.

Quyền tự do TNTG và không TNTG là một trong những quyền quan trọng của công dân và luôn được Đảng, Nhà nước công khai thừa nhận và tôn trọng. Ngay từ ngày đầu có chính quyền, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ tuyên bố “tín ngưỡng tự do”. Tinh thần ấy được thể hiện qua các văn kiện các kỳ Đại hộicủa Đảng, qua các nghị quyết, chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và ngày càng được thể chế hóa.

Hai là, Đảng và Nhà nước coi đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đoàn kết và thực hiện nhất quán chính sách đoàn kết toàn dân tộc.

Xuất phát từ nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay, từ vai trò quần chúng trong sự nghiệp cách mạng và tính quần chúng của tôn giáo, Đảng ta luôn chú ý tới yếu tố đoàn kết đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ những ngày đầu khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quan điểm này nhằm hướng tới phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc, khai thác điểm tương đồng giữa người có tôn giáo và người không có tôn giáo, cũng như giữa những người theo  tôn giáo khác nhau. Đồng thời, là cơ sở để đấu tranh với sự xâm nhập và nảy sinh của các loại tà đạo, dị giáo, những hoạt động tôn giáo trái phép đang phủ nhận truyền thống văn hóa dân tộc, làm phương hại đến lợi ích Tổ quốc và Nhân dân.

Ba là, nội dung cốt lõi của CTTG chính là công tác vận động quần chúng.

Trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng tìm mẫu số chung, sự tương đồng giữa người có đạo và người không có đạo để đoàn kết cùng nhau phấn đấu cho lợi ích chung. Mẫu số chung đó là độc lập dân tộc và cơm no, áo ấm cho mọi người. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta coi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng  để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung.

Bốn là, CTTG là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.

Tôn giáo và những hoạt động tôn giáo không chỉ giới hạn trong phạm vi đời sống tinh thần, tâm linh của riêng đồng bào có đạo, mà các hoạt động tôn giáo và CTTG còn liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Hơn nữa, CTTG còn có quan hệ đến các cấp, các ngành, các địa bàn dân cư, dù mỗi bộ phận cấu thành  của hệ thống chính trị có chức năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy, làm tốt CTTG là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo.

Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.

Việc theo đạo và truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người theo đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

b. Chính sách của Nhà nước đối với TNTG trong quá trình đổi mới

(1) Đối với các tín đồ: được sinh hoạt tôn giáo bình thường; có kinh sách, đồ dùng việc đạo; làm cho đồng bào hiểu rõ chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước; làm cho mọi người phân biệt được tự do tín ngưỡng và lợi dụng tín ngưỡng để họ tự giác đấu tranh chống mọi âm mưu của các thế lực thù địch. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi công dân. Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, thường xuyên củngcố tình đoàn kết giữa đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo, giữa tín đồ các tôn giáo với nhau.

(2) Đối với chức sắc các tôn giáo: các tổ chức tôn giáo có đường hướng hành đạo, gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ, mục đích phù hợp với luật pháp nhà nước, có cơ cấu tổ chức hợp lý và bộ máy nhân sự bảo đảmtốt về hai mặt: Đạo và Đời thì được xem xét từng trường hợp cụ thể để được hoạt động.

(3) Đối với cơ sở hoạt động kinh tế xã hội: từ thiện của tôn giáo trong khuôn khổ chủ trương chung được khuyến khích.

(4) Đối với quan hệ quốc tế của tôn giáo: phải tuân thủ chế độ chung về quan hệ quốc tế và đối ngoại của Đảng, Nhà nước nhằm mục đích bảo vệ lợi ích Tổ quốc, giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia.

CTTG trong giai đoạn hiện nay cần tập trung vào các nhiệm vụ sau:

Một là, cấp ủy đảng và chính quyền các cấp phải bảo đảm sinh hoạt TNTG cho người dân bình thường, lành mạnh, hợp pháp. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và nâng cao trình độ mọi mặt của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo. Vận động tín đồ, chức sắc, nhà tu hành trong các tôn giáo thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tích cực tham gia nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng cuộc sống mới ở cơ sở, ở các khu dân cư.

Hai là, tích cực tuyên truyền, phổ biến, giải thích chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước trong Nhân dân, nhất là với tín đồ và chức sắc các tôn giáo. Hướng dẫn các tôn giáo hoạt động theo hướng: phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức lành mạnh, hướng thiện của tôn giáo phù hợp với truyền thống văn hóa.

Ba là, Chính phủ bổ sung nghị định quy định về hoạt động của tôn giáo, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ các tín đồ và chức sắc tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

Năm là, xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh – quốc phòng ở các địa phương, địa bàn có đồng bào các tôn giáo.

Sáu là, kiện toàn bộ máy làm CTTG ở các cấp, các ngành. Có quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm CTTG ở các ngành, các cấp.

Bảy là, tăng cường công tác vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo hòa nhập cùng cộng đồng trong công cuộc đổi mới của đất nước.

Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, nâng cao nhận thức tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo.

Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hiện nay hơn lúc nào hết, chúng ta cần:

(1) Giáo dục cho cán bộ trong hệ thống chính trị các cấp và Nhân dân, trong đó có tín đồ, chức sắc tôn giáo nhận thức đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, đoàn kết tôn giáo. Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo có nghĩa là phải giáo dục cả về chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm để người dân hiểu đúng vấn đề. Giáo dục nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo cho cán bộ và người dân cần tập trung những vấn đề cơ bản, như: mục tiêu đoàn kết, yêu cầu đoàn kết, lực lượng đoàn kết, phương pháp và những biện pháp thực hiện đoàn kết lương giáo. Giáo dục cho ngườidân tránh tình trạng bài xích, đả kích những quan niệm của tôn giáo. Càng không phải là lên án các giáo lý của các tôn giáo, mà phải quan tâm xây dựng cuộc sống hiện thực, để giải quyết nguồn gốc TNTG. Từ đó, có nhận thức đúng, không né tránh, nhưng cũng không vì thế mà gây hiềm khích, mâu thuẫn giữa những người theo TNTG với những người không theo TNTG với nhau.

(2) Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của người dân, đồng bào tôn giáo trong thực hiện đoàn kết lương giáo.

Đồng bào theo tôn giáo là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội là khuyến khích, tạo điều kiện cho hàng triệu đồng bào có đạo “sống bằng an trong lòng dân tộc”, tạo điều kiện cho đồng bào theo tôn giáo “vừa làm tốt việc đạo, vừa làm tốt việc đời”, đóng góp công sức to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

(3) Nâng cao nhận thức về truyền thống đoàn kết dân tộc, các giá trị văn hóa, đạo đức tôn giáo và âm mưu, thủ đoạn chống phá đoàn kết lương giáo của các thế lực thù địch. Đoàn kết tôn giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là cơ sở thực tiễn để phản bác lại sự tuyên truyền, xuyên tạc tình hình tôn giáo Việt Nam với dụng ý xấu của các thế lực thù địch. Cần làm cho người dân, tín đồ, chức sắc tôn giáo thấy rõ âm mưu của các thế lực thù địch khi chúng tìm mọi cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo ở nước ta.

Để nâng cao nhận thức cho nhân dân và tín đồ, chức sắc tôn giáo, cấp ủy đảng, chính quyền các địa phương và ban, ngành chức năng cần làm tốt công tác giáo dục, quán triệt, xác định rõ trách nhiệm của từng đối tượng cụ thể, tránh chung chung, dàn trải. Thường xuyên đưa nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước lên các phương tiện thông tin đại chúng, như: báo mạng, điện tử, đài phát thanh, truyền hình. Kết hợp với giáo dục truyền thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiết thực tại địa bàn; tổ chức ngày hội đại đoàn kết toàn dân…

Thứ hai, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và dân trí cho người dân, trong đó có tín đồ, chức sắc tôn giáo. Giải pháp này, vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài đối với công tác tôn giáo nước ta.

Từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội giữa các vùng, miền trong cả nước. Đối với tín đồ sống ở vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, điều kiện kinh tế – xã hội kém phát triển, dễ bị chia cắt khi có thiên tai, lũ bão, đời sống mọi mặt của tín đồ, chức sắc tôn giáo còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp… Đây chính là “mảnh đất” tốt để các thế lực thù địch lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước, đồng thời lén lút truyền đạo trái phép, gây dựng cơ sở chống phá cách mạng.

Có chương trình phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội thiết thực ở vùng sâu, vùng xa, địa bàn trọng điểm tôn giáo. Ổn định, phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, cải thiện và từng bước nâng cao đời sống nhân dân…, là việc làm thiết thực, cấp bách. Đây là phương thức hữu hiệu nhất giúp người dân cảnh giác với sự tuyên truyền, xuyên tạc của kẻ thù, không bị thủ đoạn truyền đạo trái phép mê hoặc.

Thứ ba, kiên quyết ngăn chặn kịp thời các âm mưu, hành động của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là giải pháp quan trọng mang tính tình thế, xuất phát từ sự chống phá của các thế lực thù địch. Thực hiện có hiệu quả giải pháp này sẽ góp phần bảo đảm tôn trọng tự do TNTG và tự do không TNTG của Nhân dân.

Bên cạnh công tác vận động quần chúng, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội, phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng. Có biện pháp cương quyết, kịp thời đập tan âm mưu gây rối, chia rẽ tôn giáo, lợi dụng tôn giáo thực hiện âm mưu của kẻ thù nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân ở nước ta.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 4. H. NXB Chính trị quốc gia 2011, tr. 8.
2. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 7. H. NXB Chính trị quốc gia 2011, tr. 253.
3. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 8. H. NXB Chính trị quốc gia 2011, tr. 313.
4, 5. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 5. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 249, 127.
Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 11. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, tr. 405.
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo. H. NXB Tôn giáo, 2003.
2. Lê Văn Lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, 2022.
Lê Minh Phụng
Học viên cao học tại Học viện Hành chính Quốc gia