Phát huy dân chủ trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên hiện nay  

(Quanlynhanuoc.vn) – Cán bộ, đảng viên là nhân tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức Đảng, Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị. Công tác quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tổ chức xây dựng đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng mạnh là do mỗi một chi bộ mạnh. Chi bộ mạnh là do mỗi một đảng viên ra sức làm trọn 10 nhiệm vụ đã ghi trong Điều lệ Đảng”1. Do vậy, quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên tốt sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng.

 

Nguồn: internet.
Đặt vấn đề

Phát huy dân chủ trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên là việc phát huy trí tuệ của tập thể trong hoạt động quản lý, nắm chắc, định hướng phát triển những mối quan hệ tích cực, lành mạnh, điều chỉnh, uốn nắn, ngăn chặn những mối quan hệ không lành mạnh của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua đó, sẽ trực tiếp góp phần nâng cao nhận thức chính trị, củng cố lập trường, quan điểm, bồi dưỡng và phát triển phẩm chất tốt đẹp của mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng; chủ động ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Dân chủ trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên hiện nay

Thứ nhất, Đảng ta luôn quan tâm chỉ đạo công tác quản lý cán bộ, đảng viên nói chung và quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên nói riêng. Ngoài những nội dung Điều lệ Đảng quy định, Đảng đề ra nguyên tắc, quy định, quy chế về quản lý đảng viên: nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, kiểm tra, giám sát kỷ luật đảng, quy chế chất vấn trong Đảng, quy định những điều đảng viên không được làm… Vì vậy, đã đạt được những kết quả tích cực, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng nghiêm minh hơn, phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng được nâng cao.

Thứ hai, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong hệ thống chính trị đã quán triệt sâu sắc các cương lĩnh, chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ. Chủ động rà soát, quản lý chặt chẽ các mối quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên, nhất là các mối quan hệ dễ dẫn đến nảy sinh các vấn đề tiêu cực, vi phạm pháp luật, kỷ luật, kịp thời phát hiện những biểu hiện bất thường để có biện pháp phòng ngừa: “Trong công tác cán bộ, phải bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định, đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ”2.

Thứ ba, thường xuyên quan tâm, triển khai, thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ trong quản lý cán bộ, huy động sự đóng góp trí tuệ của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, Nhân dân vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”3, góp phần vào xây dựng đảng bộ, cơ quan, đơn vị các cấp trong sạch, vững mạnh. Nhờ việc thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở đã tạo ra bầu không khí dân chủ cởi mở hơn, thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng, từ đó tạo thêm động lực thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội.

Tuy nhiên, phát huy dân chủ trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên vẫn còn một số hạn chế nhất định. Cụ thể: “Công tác rèn luyện, quản lý đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn thiếu chặt chẽ; có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu”4; một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới, một số nơi còn biểu hiện gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc có biểu hiện dân chủ hình thức. Công tác tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức, vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi. Tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật đã phần nào gây bức xúc trong dư luận”5; chất lượng sinh hoạt chi bộ còn thấp. Bên cạnh đó, “Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên ở một số nơi còn chưa thực chất”6. Chưa hoàn thiện đầy đủ, đồng bộ các quy chế xác định trách nhiệm cụ thể, dẫn đến vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không xác định rõ trách nhiệm cá nhân, không khuyến khích được cán bộ, đảng viên tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay,“đã thi hành kỷ luật 91 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 17 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 23 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang (tăng gần 2 lần so nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII). Ngành Thanh tra, Kiểm toán đã kiến nghị thu hồi, xử lý tài chính hơn 340.000 tỷ đồng (tăng hơn 2 lần so nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII), hơn 1.700 ha đất; kiến nghị xử lý trách nhiệm đối với hơn 6.600 tập thể và gần 18.000 cá nhân. Các cơ quan chức năng đã chuyển gần 1.200 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật (tăng gần 2 lần so cả nhiệm kỳ Đại hội XII)”7.

Vi phạm quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ “liên quan đến cán bộ lãnh đạo ở nhiều cương vị, từ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang đến đảng viên được giao thực hiện chức trách, nhiệm vụ, công vụ; cán bộ đương chức hoặc đã nghỉ hưu nhưng vi phạm khi còn đang công tác; vi phạm xảy ra ở nhiều loại hình tổ chức đảng,… dẫn đến vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước trong nhiều lĩnh vực”8.

Tồn tại những hạn chế trên là do một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa phát huy tốt tinh thần tự phê bình và phê bình, thậm chí dân chủ kiểu hình thức hoặc mất dân chủ đến mức thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh:  “một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất”9. Các cơ quan dân cử, như: Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội chưa thực hiện đầy đủ chức năng giám sát của mình theo quy định của pháp luật.

Đề xuất một số giải pháp

Con người nói chung, cán bộ, đảng viên nói riêng chịu tác động tổng hòa của nhiều mối quan hệ xã hội, vì vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ, thiết thực, hiệu quả để quản lý cán bộ, đảng viên tốt hơn.

Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, bởi nhận thức là cơ sở của hành động, nhận thức đúng sẽ giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên có hành động đúng đắn. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, nội dung, bản chất của dân chủ và phát huy dân chủ trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên học tập nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và các quy định, hướng dẫn của Trung ương Đảng về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, kết hợp với việc thường xuyên kiểm tra nhận thức và đánh giá việc phát huy dân chủ của cán bộ, đảng viên.

Tự phê bình và phê bình là một phương cách hữu hiệu để phát huy dân chủ trong Đảng, không tự phê bình và phê bình là thiếu tiến bộ, thiếu dân chủ. Trong công tác tự phê bình và phê bình cũng phải có dân chủ, đó là quyền lợi của mỗi đảng viên cần phải được tôn trọng. Quyền phê bình góp phần nâng cao tính hăng hái, tinh thần phục trách của các đảng viên, tăng cường sự đấu tranh của đảng viên với những biểu hiện tiêu cực ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy, mỗi đảng viên cần nhận thức rõ mục đích của tự phê bình và phê bình nhằm làm cho bản thân mình tốt hơn, cán bộ, đảng viên mình tiến bộ, tổ chức trong sạch, vững mạnh. Để tự phê bình và phê bình phát huy hiệu quả trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên cần có thái độ nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, không có biểu hiện nể nang, né tránh: “đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”10.

Bên cạnh đó, phải phê bình với tinh thần tôn trọng, giúp đỡ đảng viên được phê bình; tuyệt đối không lợi dụng phê bình để nói xấu, trù dập, bôi nhọ người khác và kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện:  “biến cuộc họp tự phê bình và phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; đồng thời cũng ngăn chặn, tránh tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng”11. Công tác tự phê bình và phê bình cần được tiến hành thường xuyên nhằm phát huy hiệu quả lâu dài, làm cho nguyên tắc này thực sự trở thành một vũ khí sắc bén để mỗi cán bộ, đảng viên tốt hơn, Đảng ta ngày càng thêm vững mạnh.

Hai là, phát huy dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên.

Phát huy dân chủ bao giờ cũng phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; tăng cường kỷ luật, kỷ cương không đồng nghĩa với bóp nghẹt, vi phạm dân chủ, vi phạm dân chủ mà là gắn với việc mở rộng dân chủ, phát huy tinh thần làm chủ của cán bộ, đảng viên. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Đại hội XIII cũng đề ra một trong các giải pháp trong xử lý các mối quan hệ lớn là “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”12. Vì vậy, mỗi tổ chức đảng và đảng viên phải nhận thức đúng đắn và thống nhất các nội dung của dân chủ trong Đảng; xây dựng, hoàn thiện các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy thật sự mạnh mẽ dân chủ, trước hết là bảo đảm thực hiện các quyền đảng viên, đặc biệt là quyền được thảo luận, chất vấn, phê bình, thông tin, bảo lưu ý kiến cá nhân.

Phát huy dân chủ phải gắn với chống dân chủ cực đoan, dân chủ không tuân theo pháp luật, kỷ luật kỷ cương. Nguyên tắc tập trung dân chủ phải được thực hiện theo đúng Điều lệ Đảng và nằm trong mối quan hệ đồng bộ với các nguyên tắc khác như nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Mọi cán bộ đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng, được quyền chất vấn, phê bình trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp, quyền được thông tin, thảo luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến và trình bày ý kiến trong tổ chức đảng, tuy nhiên thiểu số phải phục tùng đa số, khi Đảng đã có nghị quyết thì mỗi cán bộ, đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết. Bên cạnh đó, cần làm tốt việc quản lý chặt chẽ người đứng đầu, vì đây là cán bộ, lãnh đạo quản lý của Đảng, chính quyền các cấp, mỗi lời nói, việc làm trong hoạt động chính trị của Đảng và Nhà nước và trong xã hội đều ảnh hưởng đến Đảng, Nhà nước và Nhân dân, thể hiện uy tín của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Ba là, phát huy tốt quyền làm chủ của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội, Nhân dân trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên.

Để hoạt động quản lý có hiệu quả cần sự tham giao vào cuộc của các cấp, các ngành, Nhân dân tham gia vào quản lý xã hội, quản lý cán bộ, đảng viên. Các cơ quan dân cử được Nhân dân tín nhiệm cao, giao phó, như: Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp cần đề cao vai trò, trách nhiệm trước cử tri để giám sát chặt chẽ cán bộ, đảng viên các cấp trong thực thi nhiệm vụ. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội các cấp cần phải nêu cao vai trò giám sát cán bộ, đảng viên về các nội dung, như: việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống và nêu gương của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, đảng viên và công chức, viên chức trong hệ thống chính trị. Cùng với đó, các cơ quan của Đảng, Nhà nước làm tốt việc tiếp nhận và trình xử lý kịp thời, đúng pháp luật những phản ánh, đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân ở nơi công tác, nơi cư trú liên quan đến cán bộ, đảng viên.

Bốn là, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, xây dựng môi trường dân chủ trong quản lý quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên.

Một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII là: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân”13; “cơ chế bảo vệ, khuyến khích Nhân dân phản ánh, tố giác cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực”14. Quyền của Nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức thi hành luật. Đẩy mạnh hơn nữa chất lượng, hiệu quả trong việc xây dựng pháp luật, thể chế quan điểm này thông qua việc xây dựng luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở moot6j cách đồng bộ, thống nhất, kịp thời và hiệu lực, hiệu quả để nâng cao hơn nữa năng lực làm chủ, tham gia quản lý, giám sát cán bộ, đảng viên của Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội.

Xây dựng bầu không khí dân chủ cởi mở, đoàn kết, thân ái, chia sẻ, tôn trọng lẫn nhau; đồng thời phê phán, đấu tranh, ngăn chặn, loại bỏ những biểu hiện tiêu cực, bè phái, mất dân chủ, dân chủ hình thức. Theo đó, Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội các cấp phải tạo môi trường dân chủ, cởi mở để cán bộ, đảng viên mạnh dạn tự phê bình và phê bình. Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính quyền, đây là một nội dung quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ, ban hành quy định, quy chế cụ thể hóa phương châm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng quy chế để Nhân dân giám sát, quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên, trực diện đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tích cực góp phần đẩy lùi tình trạng quan liêu, cửa quyền trong bộ máy quản lý của các cơ quan, đơn vị nhằm xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.

Chú thích:
1. Hồ Chí Minh. Toàn tập. Tập 14. H. NXB Chính trị quốc gia, 2011, 242.
2. Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18/8/2022 của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử.
3, 9, 10. Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2022 của Ban Chấp hành trung ương (khóa XIII) về đẩy mạnh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
4, 6, 12, 13. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tr. 91, 92, 202, 173, 202.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa  XI). H. NXB Chính trị quốc gia Sự thật, 2012, tr. 22 – 23.
7. Báo cáo số 24-BC/BCĐ ngày 16/8/2023 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực về kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 6 tháng đầu năm 2023 và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay; nhiệm vụ trọng tâm công tác những tháng cuối năm và thời gian tới.
8. Chấn chỉnh vi phạm về quy chế làm việc qua kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. http://ubkttw.vn, ngày 12/8/2020.
11. Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ngày 09/12/2021 tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai kết luận và quy định của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 

Hoàng Văn Phong – Nguyễn Thế Viễn
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng