TS. Đỗ Thị Vui
Học viện Hành chính Quốc gia
(Quanlynhanuoc.vn) – Xây dựng và phát triển chính phủ số đang trở thành ưu tiên tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả thực thi công vụ. Tại Việt Nam, trong bối cảnh xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0, việc xây dựng chính phủ số ngày càng đóng vai trò quan trọng giúp gia tăng sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
Quan niệm về chuyển đổi số
Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Chuyển đổi số đang ngày một thay đổi nhận thức của những nhà lãnh đạo, những người có khả năng quyết định hướng đi và khả năng chuyển đổi thành công của tổ chức. Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2018. Sau đó được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào ngày 03/6/2020.
Việc xây dựng chính phủ số hiện cũng đang trở thành ưu tiên tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam để nhằm nâng cao hiệu quả thực thi công vụ. Đây là giai đoạn phát triển cao hơn của chính phủ điện tử, phản ánh mức độ trưởng thành hơn về chuyển đổi số trong Chính phủ. Nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng Chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về Chính phủ điện tử, kinh tế số”1.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) lần đầu tiên đưa ra khuyến nghị về các chiến lược Chính phủ số đã đưa ra định nghĩa về chính phủ số “là việc sử dụng các công nghệ số, như một phần thiết yếu trong các chiến lược hiện đại hóa Chính phủ để tạo ra các giá trị công. Quá trình này dựa trên một hệ sinh thái Chính phủ số, bao gồm các tác nhân liên quan đến Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân, thúc đẩy sự tạo ra và truy cập dữ liệu, dịch vụ và nội dung thông qua sự tương tác với Chính phủ”2.
Ở Việt Nam, theo cách tiếp cận trong cuốn tài liệu “Cẩm nang chuyển đổi số” của Bộ Thông tin và Truyền thông, khái niệm chính phủ số được hiểu: “là Chính phủ đưa toàn bộ hoạt động của mình lên môi trường số, không chỉ là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, mà còn đổi mới mô hình hoạt động, thay đổi cách thức cung cấp dịch vụ dựa trên công nghệ số và dữ liệu, cho phép doanh nghiệp cùng tham gia vào quá trình cung cấp dịch vụ. Hay nói một cách khác, đây là quá trình chuyển đổi số của chính phủ”3.
Thực trạng chuyển đổi số trong xây dựng nền công vụ ở Việt Nam hiện nay
Trong xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0 ở Việt Nam, xây dựng chính phủ số góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Chính phủ và nền công vụ. Cụ thể, chính phủ số hoạt động dựa trên dữ liệu, sử dụng dữ liệu để ra quyết định, cùng với việc sử dụng các công nghệ mới của cuộc cách mạng 4.0 như điện toán đám mây, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, đặc biệt là các trung tâm xử lý dữ liệu giúp cho việc ban hành quyết định quản lý và xử lý công việc của các cơ quan hành chính nhanh hơn, kịp thời và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, các dịch vụ công của cơ quan nhà nước sẽ được cung cấp 24/24 phục vụ người dân, tổ chức và doanh nghiệp trong giải quyết thủ tục hành chính, qua đó tạo thuận lợi, tiết kiệm thời gian và phí cho cơ quan nhà nước, người dân, tổ chức và doanh nghiệp. Với vai trò dẫn dắt xây dựng kinh tế số và xã hội số, xây dựng chính phủ số góp phần thúc đẩy chuyển đổi số sâu rộng trên tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội (từ kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, quốc phòng, an ninh,…). Từ đó giúp gia tăng năng suất lao động nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia, phục vụ dịch vụ công ngày càng tốt hơn cho người dân và xã hội.
Ngày 15/6/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 942/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030. Đây là lần đầu tiên Việt Nam ban hành Chiến lược về phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Chiến lược đưa ra tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam sẽ đạt vị trí cao trên thế giới về xếp hạng chính phủ điện tử, chính phủ số; thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu theo xếp hạng của Liên hiệp quốc. Theo đó:
Dịch vụ công trực tuyến được triển khai rộng khắp tại các bộ, ngành, địa phương. Đến hết năm 2020, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 là đạt 56,18%, trong đó, mức độ 3 đạt 25,33%; mức độ 4 đạt 30,86%. Một số lĩnh vực cung cấp dịch vụ công trực tuyến rất hiệu quả, như thuế (99,8% doanh nghiệp khai thuế điện tử), hải quan (99,7% doanh nghiệp thực hiện hải quan điện tử). Một số bộ, ngành, địa phương có cách làm mới, dựa trên các nền tảng, để phát triển dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, nên tiết kiệm được nhiều thời gian, chi phí triển khai. Điển hình như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Y tế, chỉ trong vài tháng đã cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4. Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu ở bộ, tỉnh đã được phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu kết nối, chia sẻ dữ liệu trong nội bộ của bộ, tỉnh và kết nối ra bên ngoài. Tháng 12/2020: 100% các bộ, cơ quan ngang bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã có nền tảng Tích hợp và chia sẽ dữ liệu được triển khai ở cấp tỉnh và bộ (LGSP) và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia4.
Báo cáo của Liên hiệp quốc năm 2020, chỉ số phát triển chính phủ điện tử Việt Nam tăng 2 bậc so với năm 2018, xếp hạng 86/193 quốc gia, 23/47 châu Á và 6/11 Đông Nam Á. Chỉ số tổng hợp của Việt Nam là 0,6667, cao hơn chỉ số trung bình thế giới và khu vực, thuộc nhóm quốc gia ở mức cao. Việc trao đổi văn bản điện tử giữa các cơ quan nhà nước thông qua các hệ thống quản lý văn bản và điều hành đã trở thành nề nếp, phát huy hiệu quả, tỷ lệ trung bình văn bản điện tử trao đổi giữa các cơ quan nhà nước đạt trên 90%. Tất cả các bộ, ngành, địa phương đã triển khai hình thức họp trực tuyến để tiết kiệm thời gian và chi phí thời gian trong thời kỳ dịch bệnh Covid-19 diễn ra.
Chuyển đổi số trong cơ quan nhà nước đã tác động lớn tới công tác cải cách hành chính. Các bộ đã cắt giảm, đơn giản hóa gần 2,2 nghìn quy định kinh doanh tại 175 văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa gần 1,1 nghìn quy định của 10 bộ, cơ quan. Chất lượng dịch vụ công trực tuyến được cải thiện: đã cung cấp hơn 4,4 nghìn dịch vụ công trực tuyến trên Cổng dịch vụ công quốc gia. Cổng thông tin một cửa quốc gia đã có 250 thủ tục hành chínhcủa 13 bộ, ngành kết nối với hơn 55 nghìn doanh nghiệp tham gia5. Sự hài lòng của người dân đối với cơ quan hành chính đã được nâng lên. Năm 2022, Chỉ số hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS) và Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (PAR INDEX) đạt trên 80%6.
Bên cạnh những kết quả đạt được, xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Môi trường pháp lý cho phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số chưa hoàn thiện, nhiều khó khăn, vướng mắc chỉ có thể giải quyết ở mức luật, một số nghị định quan trọng tạo hành lang pháp lý cho triển khai chính phủ điện tử chưa được ban hành. Dịch vụ công trực tuyến được triển khai rộng khắp tại các bộ, ngành, địa phương nhưng hiệu quả sử dụng dịch vụ công trực tuyến chưa cao, số lượng hồ sơ xử lý tuyến còn rất hạn chế. Thiếu kinh phí đầu tư cho chính phủ điện tử, hiện tổng dự toán chi ngân sách nhà nước hằng năm chi cho phát triển chính phủ điện tử chỉ chiếm khoảng 0,3% (rất thấp so với tỷ lệ trung bình thế giới khoảng 1 – 2% và so với các quốc gia chú trọng phát triển công nghệ thông tin và truyền thông, như Xinh-ga-po, là mức 4%). Điều này làm giảm hiệu quả thực thi công vụ, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài.
Giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, thực tài ở Việt Nam
Một là, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số cho lãnh đạo cơ quan nhà nước các cấp để họ chuyển đổi nhận thức, sẵn sàng, quyết liệt, làm gương ứng dụng công nghệ số trong công tác chỉ đạo, điều hành.
Hai là, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số cho đội ngũ công chức, viên chức, hướng tới xây dựng “văn hóa số” trong thực thi công vụ. Cần xây dựng những quy tắc, quy định để mỗi công chức nhận thức đúng về chuyển đổi số và hành động đúng trong môi trường số.
Một số tiêu chí có thể đánh giá bao gồm: (1) Có tinh thần, thái độ làm việc trong môi trường số (tính cập nhật, liên tục, đảm bảo thời gian làm việc); (2) Chuẩn mực trong giao tiếp, ứng xử trong môi trường số (ngôn ngữ, tác phong phù hợp môi trường số…); (3) Có đạo đức nghề nghiệp trong môi trường số (bảo đảm tính bảo mật thông tin, an ninh mạng trong môi trường số).
Ba là, tập trung xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp, hiệu quả về đào tạo, tuyển dụng, bố trí, đãi ngộ nhân lực chuyển đổi số, nhất là nhân lực chất lượng cao; hạn chế tình trạng chảy máu chất xám.
Bốn là, tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, công chức, viên chức nâng cao kỹ năng số, kỹ năng bảo mật thông tin trên môi trường mạng, thành thạo sử dụng công nghệ thông tin, nghiệp vụ phục vụ cho yêu cầu công việc và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp thực hiện dịch vụ công trực tuyến.