ThS. Lê Hùng Điệp
ThS. Phạm Thị Hồng
Trường Đại học Sài Gòn
(Quanlynhanuoc.vn) – Chuyển đổi số đang là xu hướng phát triển tất yếu, làm thay đổi mạnh mẽ các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay. Trên cơ sở phân tích những tác động của chuyển đổi số đến giáo dục đại học và vị trí, vai trò đội ngũ giảng viên, bài viết tập trung làm rõ những cơ hội, thách thức và những thay đổi cần thiết trong hoạt động quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên tại các trường đại học công lập trong bối cảnh chuyển đổi số.
Từ khóa: Chuyển đổi số; quản lý nhà nước; giảng viên; đại học công lập.
1. Đặt vấn đề
Đối với giáo dục và đào tạo nói chung và giáo dục đại học nói riêng, chuyển đổi số đang là chiến lược đột phá, giúp nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Chuyển đổi số đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, các cơ sở giáo dục đại học và được triển khai nhanh chóng và hiệu quả trong quản trị nhà trường nhằm đổi mới dạy và học.
Giáo dục đại học trong bối cảnh chuyển đổi số đòi hỏi đội ngũ giảng viên phải thực sự là lực lượng tiên phong trong đổi mới nhận thức, nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, đổi mới phương pháp, trau dồi kỹ năng nghề nghiệp mà đặc biệt là kỹ năng ngoại ngữ và tin học để kịp thời nắm bắt các xu hướng và sử dụng thành thạo các trang thiết bị công nghệ, chương trình phần mềm trong quá trình dạy học, kiểm tra, đánh giá học viên và nghiên cứu khoa học.
Để rút ngắn thời gian thích ứng với chuyển đổi số, tránh lãng phí thời gian và nguồn lực, Nhà nước có vai trò rất lớn trong việc định hướng, xây dựng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và đầu tư để dẫn dắt các trường đại học và đội ngũ giảng viên, nhất là các trường đại học công lập để hoàn thành mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học theo Nghị quyết số 29-TW/NQ ngày 04/11/2013.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên phương pháp phân tích các tài liệu về xu hướng chuyển đổi số; các ứng dụng, thành tựu của chuyển đổi số; triển khai ứng dụng công nghệ trong giáo dục và đạo tạo ở Việt Nam;…
Hiện nay đã có nhiều kết quả nghiên cứu, bài viết khoa học về vấn đề chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, giáo dục đại học. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ dừng ở mức độ đánh giá chung về sự tác động của chuyển đổi số đối với giáo dục, ứng dụng các thành tựu công nghệ mới làm thay đổi hình thức học tập, phương pháp trong giáo dục đại học. Có rất ít các kết quả nghiên cứu đi sâu vào phân tích từng yếu tố tác động đến hiệu quả chuyển đổi số của giáo dục đại học, như: đội ngũ giảng viên, học viên, nguồn lực tài chính, nguồn lực công nghệ, năng lực quản trị nhà nước, vai trò của quản lý nhà nước trong giáo dục đại học bối cảnh chuyển đổi số.
Thông qua việc phân tích các nguồn tài liệu, đối chiếu thực trạng đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập ở Việt Nam, bài viết phân tích tác động của chuyển đổi số đối với giáo dục đại học nói chung để từ đó nhận định và đánh giá được những cơ hội và thách thực đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập.
3. Kết quả nghiên cứu
a) Tác động của chuyển đổi số đến giáo dục đại học và đội ngũ giảng viên.
Chuyển đổi số tác động đến hai mặt chính của giáo dục đại học là hoạt động chuyên môn, bao gồm: giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học và công tác quản lý, bao gồm: hoạt động quản trị của nhà trường và công tác quản lý nhà nước.
Trong hoạt động giảng dạy, học tập, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu khoa học, chuyển đổi số cung cấp hàng loạt các công cụ, tiện ích công nghệ mới như hệ thống đào tạo trực tuyến với giáo trình điện tử, bài giảng điện tử, thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, cổng thông tin thi trực tuyến,… tiến tới xây dựng mô hình trường đại học ảo. Theo đó, hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa học tập, mỗi cá nhân được đào tạo theo khung giáo trình và phương pháp học tập riêng biệt, không giống với người khác do với trí thông minh nhân tạo (AI) phân tích và thực hiện, việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giảng viên, học viên gần như tức thời. Thậm chí công nghệ trí thông minh nhân tạo có thể thay thế giảng viên ở một số khâu như điểm danh, chấm bài, lựa chọn giáo án phù hợp.
Trong công tác quản lý, chuyển đổi số bắt đầu từ việc số hóa thông tin quản lý sẽ hình thành nên những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch vụ công trực tuyến, ứng dụng các công nghệ 4.0 như trí thông minh nhân tạo, chuỗi khối (Blockchain), phân tích dữ liệu,…) để quản lý, điều hành, dự báo, hỗ trợ ra quyết định trong ngành Giáo dục một cách nhanh chóng, chính xác. Việc áp dụng công nghệ vào hoạt động quản trị nhà nước giúp quản lý giảng viên và học viên triệt để hơn, giảm tải các lãng phí, tăng hiệu suất và chất lượng làm việc của khối văn phòng và hỗ trợ đào tạo.
Đối với công tác quản lý nhà nước, chuyển đổi số giúp hình thành nên cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học với đầy đủ các dữ liệu về giảng viên, học viên, ngành đào tạo, chương trình học,… để kịp thời theo dõi, kiểm tra, đánh giá về số lượng, chất lượng đào tạo, phân tích xu hướng để định hướng giáo dục đại học. Chuyển đổi số còn giúp công tác quản lý nhà nước triển khai hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến hiện đại, an toàn hơn. Chuyển đổi số có tác động rất lớn, làm thay đổi đến hành vi, thói quen không chỉ của người học mà cả nhà quản trị các trường đại học và cơ quan quản lý nhà nước, đặc biệt là đội ngũ giảng viên.
b) Cơ hội trong quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên.
Thứ nhất, chuyển đổi số không chỉ là xu thế mà còn trở thành một trong những giải pháp quan trọng của chiến lược đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học. Chuyển đổi số giúp đổi mới giáo dục đại học theo hướng giảm thuyết giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Triển khai tốt chuyển đổi số không chỉ giúp nâng cao chất lượng giáo dục đại học mà quan trọng hơn là góp phần nâng cao năng suất lao động, tạo cơ hội lớn để hội nhập quốc tế.
Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy – học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 25/01/2017 là định hướng kịp thời cho giáo dục đại học và quản lý đội ngũ giảng viên trong chuyển đổi số.
Thứ hai, chuyển đổi số giúp đẩy mạnh tính công khai, minh bạch trong quản lý giáo dục và đào tạo nói chung, quản lý đội ngũ giảng viên nói riêng. Cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước và quản trị nhà trường. Nhờ có cơ sở dữ liệu số hóa đầy đủ thông tin đội ngũ giảng viên, thông qua phân tích dữ liệu phân tích dữ liệu sẽ chỉ ra được những bất cập, từ đó là cơ sở để xây dựng và ban hành những chính sách quản lý đội ngũ giảng viên phù hợp như: chỉ ra được thực trạng thừa thiếu giảng viên, chỉ ra được chất lượng giáo viên theo chuẩn, công khai, minh bạch kết quả đánh giá giảng viên hàng năm.
Thứ ba, chuyển đổi số tạo điều kiện phát triển các cộng đồng học tập chuyên nghiệp cho đội ngũ giảng viên đại học trên quy mô rộng thông qua các diễn đàn trực tuyến. Bên cạnh đó có rất nhiều hệ thống công cụ, tiện ích công nghệ thông tin để hỗ trợ giảng viên thiết kế tài liệu, xây dựng bài giảng. Đây chính là điều kiện, cơ hội phát triển nghề nghiệp chuyên môn cho đội ngũ giảng viên các trường đại học.
c) Thách thức cho quản lý nhà nước về đội ngũ giảng viên.
Một là, nhận thức và năng lực ngoại ngữ, tin học của đội ngũ giảng viên. Đối với các trường đại học công lập, trình độ tin học của một bộ phận cán bộ quản lý, giảng viên còn hạn chế và không đồng đều. Nhiều giảng viên lớn tuổi còn hạn chế về một số những kỹ năng cơ bản, như: kỹ năng soạn thảo, kỹ năng tổng hợp tính toán, kỹ năng khai thác nguồn tư liệu số, kỹ năng sử dụng máy móc thiết bị, chương trình phần mềm; ngại tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, ngại đổi mới trong ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý và giảng dạy, điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình quản lý, dạy học vẫn chưa phát huy hiệu quả.
Hai là, thiếu hụt đội ngũ giảng viên về số lượng và chất lượng cao. Từ năm 2015 – 2020, số lượng giảng viên tăng 5,09% và số lượng sinh viên giảm 4,57%, trong đó, nhóm ngoài công lập có xu hướng tăng mạnh hơn. Đối với nhóm các trường đại học công lập, có thể thấy số lượng và tỷ lệ, cơ cấu đội ngũ giảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt và lâu dài. Tỷ lệ sinh viên/giảng viên tuy có giảm còn 23,85:1 nhưng so với các quốc gia có nền giáo dục đại học tiên tiến nói chung, vẫn còn thấp. Ở các nước có nền giáo dục đại học tiên tiến, tỷ lệ này dao động từ 15 – 20:11.
Chất lượng đội ngũ giảng viên đại học hiện nay còn chưa thực sự tương xứng với đòi hỏi phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế, thiếu đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao.
Tỷ lệ giảng viên là giáo sư, phó giáo sư các trường đại học công lập chỉ đạt 7,42% năm 2020 (các trường đại học ngoài công lập là 3,93%), tỷ lệ tiến sĩ đạt 32,01%, tỷ lệ thạc sĩ chiếm đến 59,52%. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ, tin học của đội ngũ giảng viên còn chưa cao, số giảng viên có khả năng giảng dạy bằng tiếng Anh còn ít. Theo số liệu điều tra, chỉ có 36,6% giảng viên đại học công lập được bồi dưỡng ngoại ngữ, 39,5% bồi dưỡng công nghệ thông tin2.
Ba là, thiếu hụt hạ tầng công nghệ, thiếu hụt dữ liệu. Về hạ tầng công nghệ, đó là việc đầu tư, trang bị hạ tầng mạng, trang thiết bị công nghệ như máy tính, camera, máy in, máy quét, đường truyền, dịch vụ internet cho các trường đại học công lập và giảng viên – đặc biệt ở các vùng xa, vùng khó khăn – còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển đổi số; việc xây dựng học liệu số, hệ thống quản lý dữ liệu còn phát triển tự phát ở mỗi trường đại học công lập, chưa thành hệ thống, khó kiểm soát về nội dung và chất lượng. Về thu thập dữ liệu, việc nhập liệu triển khai ở các trường đại học đôi khi không chính xác và không đáng tin cậy ảnh hưởng đến chất lượng dữ liệu của cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo. Dữ liệu trong chuyển đổi số đòi hỏi phải luôn được ghi nhận, cập nhật liên tục, nhanh chóng, chính xác, có cấu trúc và đồng bộ.
Bốn là, vấn đề kiểm tra, giám sát để bảo đảm chất lượng giảng viên thực chất của đội ngũ giảng viên. Việc áp dụng công nghệ tiến tiến để đổi mới phương thức quản lý, phương pháp giảng dạy trong quá trình chuyển đổi số cũng khiến cho việc sao chép, nhân bản hồ sơ, giáo án, bài soạn, thậm chí cả việc đánh giá, nhận xét giảng viên đại học trở nên đơn giản và dễ dàng hơn. Điểm thách thức lớn nhất đối với chuyển đổi số có lẽ là làm thế nào để bảo đảm việc học tập và giảng dạy cũng như các hoạt động giáo dục là thực chất.
4. Giải pháp quản lý đối với đội ngũ giảng viên trong bối cảnh chuyển đổi số
(1) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm tạo được sự hiểu biết chung về chuyển đổi số. Chỉ khi các cơ quan quản lý nhà nước, các trường đại học và đội ngũ giảng viên hiểu đúng về chuyển đổi số sẽ định hình chiến lược đúng ngay từ đầu, giảm lãng phí trong quá trình triển khai. Trong đó, nâng cao nhận thức của các trường đại học công lập và đội ngũ giảng viên về tầm quan trọng của chuyển đổi số trong giáo dục đại học, về sứ mệnh của trường đại học và vai trò, trách nhiệm của đội ngũ giảng viên. Chuyển đổi số không chỉ đơn thuần là việc ứng dụng các tiến bộ công nghệ vào hoạt động giảng dạy hoặc số hóa các dữ liệu tại các trường đại học. Chuyển đổi số trong giáo dục đại học bao hàm cả những hoạt động số hóa dữ liệu lẫn việc ứng dụng công nghệ và thay đổi văn hóa tổ chức, văn hóa học tập của giảng viên, học viên.
(2) Kiện toàn hệ thống văn bản pháp lý về chuyển đổi số trong giáo dục đại học và quản lý đội ngũ giảng viên đại học. Cần kịp thời xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn của môi trương học tập trực tuyến, tiêu chuẩn của các nền tảng học liệu số, tiêu chuẩn trong kiểm tra, đánh giá năng lực giảng viên, học viên qua hình thức đào tạo trực tuyến. Đặc biệt là các quy định về bảo đảm an toàn thông tin, sở hữu trí tuệ trong môi trường số hóa.
(3) Tổ chức tốt công tác thu thập dữ liệu, nhập liệu đầu vào trong xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo với bộ phận quan trọng là cơ sở dữ liệu về đội ngũ giảng viên đại học. Quá trình thu thập dữ liệu là yêu cầu quan trọng khi tiến hành thực hiện chuyển đổi số. Do đó, thu thập dữ liệu là nội dung cần phải đẩy nhanh hơn nữa tại Việt Nam để hoạt động số hóa dữ liệu có thể thực hiện một cách kịp thời. Một số yêu cầu cần phải đáp ứng khi tiến hành thu thập dữ liệu bao gồm giải quyết các yêu cầu về nhân lực, phương tiện kỹ thuật, hệ thống pháp lý, sự đồng thuận của các cơ sở giáo dục đại học.
(4) Bảo đảm hạ tầng công nghệ và an toàn thông tin triển khai chuyển đổi số phải phù hợp với các chuyên ngành đào tạo và bảo đảm năng lực điều hành, vận hành công nghệ của các trường đại học công lập. Để hoạt động chuyển đổi số ở các trường đại học công lập diễn ra hiệu quả, cần bảo đảm tính kết nối được thực hiện đồng bộ, tránh tình trạng có sự khác biệt về tiêu chuẩn, phương thức kết nối chung giữa các trường đại học.
(5) Xây dựng quy hoạch, kế hoạch để tiếp tục phát triển đội ngũ giảng viên cả về chất lượng, cơ cấu hợp lý. Triển khai bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở các trường đại học công lập kiến thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số bằng đa dạng các hình thức từ tập trung đến trực tuyến và cả tự bồi dưỡng. Trước hết là kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin, kỹ năng khai thác, sử dụng hiệu quả các ứng dụng phục vụ công việc giảng dạy.
5. Kết luận
Chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đứng trước những thời cơ và thách thức đặt ra, giáo dục đại học cần được thay đổi mạnh mẽ và toàn diện các mặt để thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số, đáp ứng sứ mệnh, mục tiêu, yêu cầu của ngành Giáo dục.
Trong các phương diện của chuyển đổi số ở giáo dục đại học, chuyển đổi đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập từ nhận thức đến nâng cao trình độ, kỹ năng, phương pháp sư phạm là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Để đạt được mục tiêu này, cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số ở các trường đại học, đầu tư trang bị hạ tầng công nghệ thông tin có tính đồng bộ, thông suốt ở các cấp quản lý, xây dựng và khai thác sử dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục và đào tạo và quan tâm, chú trọng đến việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ, kỹ năng, các chế độ, chính sách cho đội ngũ giảng viên.
Chú thích:
1,2. Nguyễn Văn Phong. Quản lý nhà nước về phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập, Tạp chí Lý luận chính trị số 9/2020.
Tài liệu tham khảo:
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương 8 (khoá XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2. Kế hoạch số 345/KH-BGDĐT ngày 23/5/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy – học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025”.
3. Dương Thị Thái, Hà Trọng Quỳnh, Phạm Thị Tuấn Linh. Digital transformation in higher education, TNU Journal of Science and Technology, 226 (09/2022): 139 – 146.
4. Lữ Đăng Nhạc. Một số vấn đề về chuyển đổi số trong hoạt động bồi dưỡng ở cơ sở giáo dục đại học, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, Số tháng 4/2021.
5. Nguyễn Hữu Đức, Vũ Thị Mai Anh, Mai Thị Quỳnh Lan, Nghiêm Xuân Huy. Tham luận: Nâng cao năng lực hệ thống giáo dục đại học quốc gia. Tài liệu Hội thảo: Đổi mới giáo dục đại học năm 2019 tại Hà Nội.
6. A.A.Bilyalova, D.A.Salimova và T.I.Zelenina (2019), Digital Transformation in Education. Lecture Notes in Networks and Systems, Volume, 78, 265-276.
7. D. Christopher Brooks, Mark McCormack (2020), Driving Digital Transformation in Higher Education, ECAR research report, Louisville, CO: ECAR.