Giải pháp thúc đẩy hoạt động chia sẻ tri thức của sinh viên khối kinh tế trên địa bàn thành phố Hà Nội

TS. Đặng Thu Hương, ThS. Đào Ngọc Linh
ThS. Trần Phương Mai, ThS. Trần Hải Yến
Trường Đại học Thương mại

(Quanlynhanuoc.vn) – Sự ra đời của internet và mạng toàn cầu cho phép mọi người tiếp cận với nguồn tri thức không giới hạn, điều này đã thay đổi cách suy nghĩ, làm việc và sản xuất. Yếu tố tri thức là một trong những yếu tố nổi lên cùng với xu thế này và có vai trò quan trọng trong sản xuất. Đối với lĩnh vực giáo dục, ngoài việc lĩnh hội những kiến thức hàn lâm, người học cần phải biết kết hợp với các kiến thức, kỹ năng liên quan để tăng khả năng ứng phó với thay đổi, tăng khả năng làm việc sáng tạo, khả năng tư duy, kỹ năng ngôn ngữ và giao tiếp. Tuy nhiên, trên thực tế, các trường đại học chưa chú trọng tới việc trau dồi tri thức cho người học, đặc biệt thông qua hoạt động chia sẻ tri thức. Bài viết nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động chia sẻ tri thức của sinh viên và đưa ra giải pháp để các trường đại học gia tăng khả năng chia sẻ tri thức trong sinh viên.

Từ khóa: Quản trị tri thức, chia sẻ tri thức, trường đại học, sinh viên.

1. Đặt vấn đề

Hiện nay, đào tạo và quản trị tri thức trong lĩnh vực giáo dục mới chỉ quan tâm đến khía cạnh giảng viên và giáo viên của các trường để nâng cao chất lượng đào tạo, chưa quan tâm đến người học và sinh viên. Tuy nhiên, lợi thế cạnh tranh của các trường đại học hiện đại là họ có thể đào tạo được những thế hệ người học có kiến thức, kỹ năng và bảo đảm chất lượng học tập của sinh viên. Các doanh nghiệp có thể có được lợi thế cạnh tranh từ những sinh viên có kỹ năng, kinh nghiệm, tư duy và nhận thức. Những thế hệ người lao động chất lượng cao này sẽ là nguồn nhân lực có chất lượng có thể tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp và thúc đẩy quốc gia phát triển, đặc biệt theo định hướng bền vững.

Chia sẻ tri thức cải thiện hiệu suất, mở rộng mạng lưới và không gian mở, khuyến khích sự đổi mới và hợp tác hơn trong công việc. Việc sinh viên được khuyến khích chia sẻ kiến thức sẽ thúc đẩy văn hóa trao đổi, khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới và phát triển cá nhân cũng như thúc đẩy dòng tri thức thông suốt và sự chủ động trong việc tiếp cận kiến thức và kỹ năng mới. Có thể thấy, vai trò của hoạt động chia sẻ tri thức trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, đặc biệt gắn với đối tượng là sinh viên là rất quan trọng. Vì vậy, cần có những giải pháp để giúp các trường đại học, đặc biệt các trường đại học thuộc khối kinh tế thúc đẩy khả năng chia sẻ tri thức trong sinh viên. Từ đó, giảm bớt gánh nặng đào tạo từ nhà trường, đồng thời, cải thiện chất lượng học tập của người học.  

2. Cơ sở lý thuyết

Tri thức là một thuật ngữ khó để xác định cũng như đo lường. Tri thức thường được hiểu là sự phức tạp và không chắc chắn. Nó có mức độ trừu tượng cao hơn trong tâm trí con người. Khi tiếp cận tới thuật ngữ “tri thức”, có nhiều cách để định nghĩa cụm từ này. Theo Tiwana (2000), tri thức được định nghĩa như là “thông tin có thể hành động (có liên quan) có sẵn theo đúng định dạng, vào đúng thời điểm và ở đúng nơi để ra quyết định”. Nonaka và Takuchi (1995) đã khái niệm “tri thức là một quá trình năng động của con người để chứng minh niềm tin cá nhân đối với sự thật. Tri thức có nhiều ý nghĩa khác nhau, tùy thuộc vào các nguyên tắc sử dụng nó”. “Tri thức là sự hiểu biết của con người về một lĩnh vực quan tâm cụ thể đã được thu nhận thông qua nghiên cứu và kinh nghiệm” (Elias & Hassan, 2003). Từ các khái niệm, định nghĩa về tri thức của các nhà nghiên cứu, học giả trên thế giới, nhìn chung, tri thức có thể được hiểu một cách đơn giản, đó là “một hỗn hợp của kinh nghiệm, giá trị, thông tin theo bối cảnh, chuyên môn sâu sắc và trực giác cơ bản cung cấp môi trường và khuôn khổ để đánh giá và kết hợp những kinh nghiệm và thông tin mới”.

Chia sẻ tri thức có thể được tiếp cận, khái niệm theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào bối cảnh và điều kiện cũng như quan điểm khác nhau. Qua quá trình nghiên cứu, có nhiều định nghĩa được đưa ra để cụ thể hóa cho thuật ngữ chia sẻ tri thức. Theo Wang (1999), chia sẻ tri thức là sự chuyển đổi từ tri thức ẩn thành tri thức hiện với sự chuyển giao giữa cá nhân, tổ chức và ngược lại. Theo Lee (2003) thì chia sẻ tri thức là các hoạt động chuyển giao hoặc phân phối tri thức ẩn và hiện giữa các cá nhân, nhóm hay tổ chức. Hay theo Demirel và Seckin (2011), chia sẻ tri thức là một trong những yếu tố cần thiết, quan trọng và hiệu quả để tổ chức có thể đạt được các mục tiêu của mình. Với đa dạng khái niệm liên quan tới chia sẻ tri thức, có thể thấy, có nhiều cách tiếp cận tới thuật ngữ này. Trong các nghiên cứu trước đây, có nhiều học giả, nhà nghiên cứu đã xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới chia sẻ tri thức, cụ thể như: 

(1) Sự hỗ trợ của nhà trường. Theo Jolaee và cộng sự (2014), hỗ trợ của tổ chức là một trong những khái niệm thiết yếu nhất trong tài liệu về quản lý và nếu không có nó thì sẽ có những cản trở đối với việc chia sẻ kiến thức. Igbaria và cộng sự (1996) cho rằng, nếu một tổ chức cung cấp các nguồn lực sẵn có, đào tạo phù hợp, khuyến khích có ý nghĩa và loại bỏ các rào cản trong việc chia sẻ kiến thức thì chất lượng chia sẻ kiến thức sẽ cao hơn. Trong nghiên cứu của Bartol và cộng sự (2002), đã nhận định rằng, sự hỗ trợ của tổ chức đặc biệt quan trọng trong việc tác động đến chia sẻ kiến thức. Nhờ sự hỗ trợ của tổ chức, không chỉ dưới hình thức hỗ trợ tài chính mà còn cả các chính sách liên quan đến khen thưởng, khuyến khích cho các hành động chia sẻ tri thức.

(2) Sự hỗ trợ của giảng viên là một trong số sự hỗ trợ, ủng hộ của tổ chức. Với tính chất, đặc điểm của lĩnh vực giáo dục và đào tạo, việc hỗ trợ của tổ chức không chỉ đến từ các khía cạnh như chính sách của nhà trường, các hoạt động thúc đẩy chia sẻ kiến thức mà còn đến từ sự hỗ trợ của giảng viên, những người trực tiếp thúc đẩy khả năng chia sẻ kiến thức của sinh viên (Chung và Trâm Anh, 2022). Theo đó, với các hoạt động học tập, trao đổi, tương tác giữa các sinh viên được tổ chức hợp lý, hài hòa trong môi trường lớp học cũng là điều kiện để thúc đẩy khả năng chia sẻ kiến thức giữa các sinh viên (Kankanhalli và cộng sự, 2005; Lin, 2007; Bock và cộng sự, 2005). 

(3) Môi trường vật lý. Riege (2005) chỉ ra một số yếu tố thuộc về tổ chức trở thành rào cản tới chia sẻ tri thức của sinh viên, như: thiếu không gian chính thức và phi chính thức để chia sẻ tri thức; văn hóa tổ chức không hỗ trợ cho các hoạt động chia sẻ; việc bố trí khu làm việc hạn chế thực hành chia sẻ tri thức; cạnh tranh nội bộ giữa các bộ phận, đơn vị… Bulan và Sensuse (2012) đề xuất mô hình gồm các yếu tố thuộc về tổ chức ảnh hưởng đến chia sẻ tri thức, trong đó có quá trình làm việc và bố trí văn phòng.

(4) Niềm vui trong việc giúp đỡ người khác. Lin (2007) cho rằng: “sự thích thú trong việc giúp đỡ người khác” là một trong các yếu tố của con người có ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động chia sẻ tri thức. Theo đó, các cá nhân sẽ có động lực hơn để truyền đạt và thu nhận tri thức từ các đồng nghiệp khi họ thích chia sẻ tri thức. Seba và cộng sự (2012) đã chỉ ra rằng, các nhân viên sẽ chỉ chia sẻ tri thức khi họ thực sự quan tâm để làm như vậy. Binsawad và cộng sự (2017) chỉ ra ảnh hưởng tích cực của ba yếu tố thuộc về cá nhân đến chia sẻ tri thức là niềm tin giữa các cá nhân, sự thích thú trong giúp đỡ người khác và sự tự chủ. Podrug và cộng sự (2017) xác định sự thích thú trong giúp đỡ người khác là yếu tố ảnh hưởng khi nghiên cứu ảnh hưởng đến quá trình truyền đạt và thu nhận tri thức. Kết quả cho thấy, sự thích thú trong giúp đỡ người khác có ảnh hưởng đến hai quá trình này. 

(5) Tự tin vào năng lực bản thân thể hiện qua sự tự chủ về tri thức của cá nhân (Lin, 2007). Theo đó, sự tự tin vào tri thức của bản thân có thể thúc đẩy các cá nhân chia sẻ thông tin, hiểu biết của bản thân. Ngoài ra, ý thức về năng lực và sự tự tin của cá nhân có thể thúc đẩy cá nhân đó chia sẻ thông tin. Đồng thời, những người làm việc tin tưởng vào khả năng chia sẻ kiến thức hữu ích của họ sẽ có động lực mạnh mẽ hơn để chia sẻ kiến thức này với các đồng nghiệp (Binsawad và cộng sự, 2017). 

(6) Niềm tin và nhận thức của cá nhânIsmail và Yusof (2008) đề cập hai yếu tố thuộc về cá nhân khi đề xuất mô hình nghiên cứu về chia sẻ tri thức là nhận thức và niềm tin. Khi xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến chia sẻ tri thức giữa các cá nhân. Kim và Ju (2008) đã đưa ra khẳng định, nhận thức là yếu tố quan trọng nhất thuộc về cá nhân ảnh hưởng đến chia sẻ tri thức. Al-Qadhi và cộng sự (2015) cũng đã thực hiện nghiên cứu về chia sẻ tri thức và đưa ra kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy, niềm tin có ảnh hưởng đến chia sẻ tri thức. Yếu tố này cũng được kiểm định trong nghiên cứu của Binsawad và cộng sự (2017) và cho kết quả ảnh hưởng tích cực tới chia sẻ tri thức. 

(7) Nhân tố về công nghệ. Các thành phần công nghệ bao gồm phần cứng và phần mềm được sử dụng trong các hoạt động chia sẻ tri thức. Công nghệ giúp mọi người làm việc cùng nhau hơn. Bất kể khó khăn về khoảng cách, đây được coi là công cụ tiềm năng hỗ trợ việc lưu trữ, chuyển giao và phát triển tri thức (Reychav và Weisberg, 2010). Lin (2007) cho rằng, việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông có tác động tích cực đến việc thu nhận tri thức.

Việc sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông là rất quan trọng để bảo đảm việc chia sẻ kiến thức được thực hiện tốt. Do đó, các tổ chức phải bảo đảm cho các thành viên của họ được cung cấp đủ nguồn lực công nghệ. Trong mô hình nghiên cứu đề xuất của mình, Bulan và Sensuse (2012) đề cập đến ba yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến việc chia sẻ tri thức: ứng dụng công nghệ, hạ tầng công nghệ và sử dụng công nghệ.

Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan từ các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu đề xuất mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chia sẻ tri thức của sinh viên khối kinh tế các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hà Nội gồm: sự hỗ trợ của nhà trường; sự hỗ trợ của giảng viên; môi trường vật lý; niềm vui trong việc giúp đỡ người khác; tự tin vào năng lực bản thân; niềm tin và nhận thức của cá nhân và nhân tố về công nghệ. 

Bên cạnh các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động chia sẻ tri thức của sinh viên khối kinh tế các trường đại học trên địa bàn Thành phố Hà Nội ở trên, nhóm tác giả còn dựa trên mô hình lý thuyết hành vi có kế hoạch TPB (Ajzen, 1988) và mô hình chấp nhận công nghệ TAM (Davis, 1986) để hình thành mô hình nghiên cứu. Theo đó, các yếu tố ảnh hưởng nêu trên là những yếu tố tác động tới ý định chia sẻ kiến thức của cá nhân. Khi các cá nhân có ý định chia sẻ kiến thức, sẽ thúc đẩy hành vi chia sẻ tri thức của họ. 

3. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp giữa định tính và định lượng, dựa trên việc tổng quan các nghiên cứu có liên quan để hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động chia sẻ tri thức. Đồng thời, trên cơ sở tổng quan nghiên cứu, các tác giả xây dựng mô hình lý thuyết theo cách tiếp cận phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và đặt ra các giả thuyết nghiên cứu, làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo trong việc thiết lập thang đo và kiểm định thang đo của mô hình nghiên cứu đề xuất. 

Nghiên cứu thu thập và sử dụng các dữ liệu nghiên cứu sơ cấp, qua phần khảo sát nhóm sinh viên thuộc khối kinh tế tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội. Sau khi thu thập thông tin, dữ liệu từ bảng hỏi khảo sát, nghiên cứu thu được 445 phiếu hợp lệ. Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0 dựa trên kết quả đánh giá độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích tương quan, phân tích hồi quy tuyến tính đa biến với các kiểm định sự phù hợp của mô hình, các giả thuyết nghiên cứu. 

4. Kết quả nghiên cứu 

Bảng câu hỏi khảo sát bao gồm 7 biến độc lập tương ứng với 7 yếu tố được đề xuất trong mô hình nghiên cứu và 2 biến phụ thuộc với 57 biến quan sát. Nghiên cứu sử dụng phần mềm SPSS cho kết quả bảo đảm của các kiểm định sau:

(1) Hệ số Cronbach’s Alpha của các biến độc lập và biến phụ thuộc từ 0,781 đến 0,894: bảo đảm thang đo có độ tin cậy cao.

(2) Trị số của KMO = 0,772 (> 0,5) lớn là điều kiện đủ để phân tích nhân tố là thích hợp.

(3) Các hệ số tải nhân tố đều lớn hơn 0,5 và không có trường hợp biến nào cùng lúc tải lên cả hai nhân tố với hệ số tải gần nhau. Như vậy, các nhân tố thỏa mãn được giá trị hội tụ và phân biệt khi phân tích EFA. Ngoài ra, các nhân tố cũng không bị tăng thêm hoặc giảm đi nhân tố.

(4) Kiểm định phương sai cộng dồn (Cumulative variance = 72,496% >50%).

(5) Phân tích hồi quy tuyến tính bội.

Mô hìnhHệ số tác động chưa chuẩn hóaHệ số tác động đã chuẩn hóaMức ý nghĩaKiểm định đa cộng tuyến
Dung saiVIF
Sự hỗ trợ của nhà trường0,1780,2220,0000,4592,178
Sự hỗ trợ của giảng viên0,2230,2300,0000,4642,155
Môi trường vật lý0,1770,1740,0030,6731,486
Sự thích thú trong giúp đỡ người khác0,4190,4300,0000,3972,520
Tự tin về năng lực bản thân0,3610,3670,0000,4642,155
Niềm tin và nhận thức của bản thân0,2940,2940,0000,4142,414
Nhân tố về công nghệ0,2450,2430,0000,4462,242
Nguồn: Kết quả xử lý từ phần mềm SPSS 22.0.

Từ kết quả hồi quy tuyến tính theo hệ số đã chuẩn hóa, có thể thấy, các yếu tố: sự thích thú trong giúp đỡ người khác và tự tin về năng lực bản thân có tác động mạnh mẽ tới hành vi chia sẻ tri thức của sinh viên khối kinh tế các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội, với hệ số đã chuẩn hóa tương ứng 0,419 và 0,361. Các yếu tố: sự hỗ trợ của nhà trường, sự hỗ trợ của giảng viên, môi trường vật lý, niềm tin và nhận thức của bản thân, nhân tố về công nghệ cũng có vai trò khá quan trọng với hành vi chia sẻ tri thức của sinh viên với hệ số đã chuẩn hóa lần lượt 0,178; 0,223; 0,294; và 0,243. Các yếu tố đều có tác động tới hành vi chia sẻ tri thức do có giá trị ý nghĩa Sig. < 5%.

5. Một số giải pháp

Từ kết quả phân tích và nghiên cứu trên nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động chia sẻ tri thức cho sinh viên thuộc khối kinh tế các trường đại học trên địa bàn Hà Nội, nghiên cứu đề xuất một số giải pháp: 

Thứ nhất, nhà trường cần chú trọng tăng cường các hoạt động giáo dục nhằm gia tăng cảm giác thích thú trong chia sẻ kiến thức của sinh viên. Theo đó, khi sinh viên được đào tạo nhận thức về tinh thần làm việc, sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập sẽ giúp sinh viên hiểu rõ tầm quan trọng của việc chia sẻ và trao đổi kiến thức, kỹ năng, chuyên môn nhằm hoàn thiện các công việc trao đổi giữa các cá nhân. 

Thứ hai, tự tin vào năng lực bản thân là yếu tố cốt lõi để sinh viên quyết định có hay không hành vi chia sẻ tri thức. Việc chuẩn hóa các chương trình đào tạo theo hướng tích cực, đổi mới, sáng tạo nhằm nâng cao trình độ, chuyên môn cho sinh viên sẽ giúp sinh viên thêm tự tin vào năng lực của bản thân trong việc xử lý, giải quyết vấn đề, cũng như khả năng cung cấp được chắc chắn hơn các giải pháp, góp ý từ kiến thức của bản thân để tăng cường khả năng học tập của sinh viên. 

Thứ ba, dành sự công nhận, lời khen cho những sinh viên có đóng góp các sáng kiến, sự hiểu biết của mình cho quá trình học tập của các cá nhân khác, cũng như cho các công việc chung của tập thể nơi các cá nhân tham gia như các thành viên của nhóm. Việc công nhận những đóng góp của sinh viên trong việc chia sẻ kiến thức giúp thúc đẩy niềm tin và sự nhận thức về bản thân của sinh viên. Từ đó, gia tăng nhận thức về vai trò của bản thân trong hỗ trợ các sinh viên khác trong quá trình học tập của họ. 

Thứ tư, nhà trường và giảng viên nên tăng cường các hoạt động thảo luận nhóm, trao đổi giữa các sinh viên trong quá trình học tập trên lớp, qua các bài tập nhóm. Đồng thời, các nhà trường và giảng viên cũng nên triển khai những cơ chế, chính sách cộng điểm thưởng, điểm rèn luyện cho sinh viên khi sinh viên có những chia sẻ kiến thức phù hợp, bổ trợ, đóng góp cho các nội dung bài học. Từ đó, thúc đẩy hành vi chia sẻ tri thức trong sinh viên thường xuyên và hiệu quả hơn. 

Thứ năm, khuyến khích sinh viên sử dụng công nghệ thông tin để chia sẻ tri thức. Với bối cảnh chuyển đổi số như hiện nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và internet đã làm thay đổi các cách thức chia sẻ tri thức. Các nhà trường nên có các biện pháp nhằm cung cấp mạng với cơ sở hạ tầng để sinh viên trao đổi tri thức, đồng thời, xây dựng các nền tảng mạng trực tuyến để giúp sinh viên trao đổi và chia sẻ kiến thức thuận tiện hơn. 

Tài liệu tham khảo:
1. Ajzen, I., and Fishbein, M. (1988). Understanding Attitudes and Predicting Social Behavior. New Jersey: Prentice Hall, Englewood Cliffs.
2. Ali Jolaee, K. M. (2014). Factor affecting knowledge sharing intention among academic staff.International Journal of Educational Management, Vol 28, Iss 4, 413-431, http://dx.doi.org/10.1108/IJEM-03-2013-0041.
3. Al-Qadhi, Y. H., Md Nor, K., Ologbo, A. C., and Knight, M. B. (2015). Knowledge sharing in a multi-nationality workforce: Examining the factors that influence knowledge sharing among employees of diverse nationalities. Human Systems Management, 34(3), 149 – 165.
4. Bartol, K. a. (2002). Encouraging knowledge sharing: The role of organizational reward systems. Journal of Leadership and Organizational Studies, 9(1), 64 – 76.
5. Binsawad, M., Sohaib, O., and Hawryszkiewycz, I. (2017). Knowledge Sharing in Technology Business Incubator. 26th international conference on information systems development.
6. Bock, G. Z. (2005). Behavioural intention formation in knowledge sharing: Examining the roles of extrinsic motivators, social-psychologial forces, and organizational climate. MIS quarterly, 87 – 111.
7. Bulan, S. J., and Sensuse, D. I. (2013). Knowledge Sharing Model Among Academic Staffs in Universities. Journal Sistem Informasi, 8(2), 133 – 139.
8. Davis, F. (1986). User acceptance of information systems: the technology acceptance model (TAM). University of Michigan Business School.
9. Demirel, Y. a. (2011). The impact of organizational justice on knowlegde sharing: Research on drug industry employees. BILIG, 56, 99 – 119.
10. Do Thi Chung & Pham Thi Tram Anh. (2022). Factor affecting knowledge sharing behaviour in public higher education institutions: An empirical study of Vietnam. Cogent Business & Management, 9 (1), https://doi.org/10.1080/23311975.2022.2155002.
11. Hair J.F., T. R. (1998). Multivariate Data Analysis, 5th Edition. New Jersey: Prentice-Hall, Inc.
12. Igbaria, M. P. (1996). A motivation model of microcomputer usage. Journal of Management Systems, 13 (1), 145 – 157, https://doi.org/10.1080/07421222.1996.
13. Ismail, M. B., and Yusof, Z. M. (2009). The impact of individual factors on knowledge sharing quality. Journal of Organizational Knowledge Management, 13, 1 – 12.
14. Kankanhalli, A. T. (2005). Contributing knowledge to electronic knowledge repositories: an empirical investigation. MIS quaterly, 113 – 143.
15. Kim, S. a. (2008). An analysis of faculty perceptions: attitudes toward knowledge sharing and collaboration in an academic institution. Library and Information Science Research, 30 (4), 282 – 290.
16. Lee, H., and Choi, B. (2003). Knowledge management enablers, processes, and organizational performance: An integrative view and empirical examination. Journal of management information systems, 20(1), 179 – 228.
17. Lin, H. F. . (2007). Effects of extrinsic and intrinsic motivation on employee knowledge sharing intentions. Journal of information science, 33 (2), 135 – 149.
18. Nonaka, I., and Takeuchi, H. (1995). The knowledge-creating company: How Japanese companies create the dynamics of innovation. Oxford university press.
19. Podrug, N. F. (2017). Knowledge sharing and firm innovation capability in Croatian ICT companies. International Journal of Manpower, 38 (4), 632 – 644.
20. Reige, A. (2005). Three-dozen knowledge-sharing barriers managers must consider. Journal of knowledge management, 9 (3), 18 – 35.
21. Reychav, I., and Weisberg, J. . (2010). Bridging intentioin an behavior of knowledge sharing.Journal of knowledge management, 14 (2), 285 – 300.
22. Sajeva, S. (2014). Encouraging knowledge sharing among employees: how reward matters.Procedia-Social and Behavioral Sciences, 156, 130 – 134.
23. Seba, I., Rowley, J., and Lambert, S. (2012). Factors affecting attitudes and intention towards knowledge sharing in the Dubai Police Force. International Journal of Information Management, 32 (4), 372 – 380.
24. Soudergaard, S., Kerr, M., and Clegg, C. (2007). Sharing knowledge: contextualising socio-technical thinking and practice. The Learning Organization, 14 (5), 423 – 435.
25. Taylor, W. A., and Wright, G. H. (2004). Organizational readiness for successful knowledge sharing: Challenges for public sector managers. Information resources management journal, 17 (2), 22.
26. Tiwana, A. (2000). The knowledge management toolkit: orchestrating IT strategy, and knowledge platform. Pearson Education India.
27. Tohidinia, Z., and Mosakhani, M. (2010). Knowledge sharing behavior and its predictors. Industrial Management and Data Systems, 110 (4), 611 – 631.
28. Wang, X. Z. (1999). Data Mining and Knowledge Discovery – an Overview. Data Mining and Knowledge Discovery for Process Monitoring and Control, 13 – 28.