Vài góp ý đối với dự thảo Luật về Hội

(QLNN) – Luật về Hội là một trong những văn bản pháp luật liên quan đến một trong những quyền con người quan trọng: Quyền được thành lập tổ chức để đại diện và bảo vệ quyền lợi của mình, theo đuổi những mục tiêu kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị. Việc Việt Nam phê chuẩn nhiều công ước quốc tế về quyền con người, công ước của Tổ chức Lao động Quốc tế và đặc biệt Hiến pháp 2013 đã hiến định quyền con người và quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân đòi hỏi Dự thảo Luật về Hội cần cân nhắc những yếu tố về tính hợp hiến và yếu tố hội nhập quốc tế.

 

1. Ở nước ta, quyền lập hội và quyền hội họp bắt đầu được chính thức ghi nhận từ Hiến pháp năm 46. Tại thời điểm đó, khi mà các điều kiện về nhận thức và truyền tải thông tin còn rất hạn chế, thì việc quy định tại Điều 10 về quyền “tự do tổ chức và hội họp” là một minh chứng lớn cho các quyền dân chủ được xác lập trong nước. Quyền lập hội và quyền hội họp là hai quyền có phạm vi và nội dung khác nhau, nhưng có mối liên quan mật thiết và hợp thành nên bản chất của quyền, đó là tự do “hội” và “họp”.

Để cụ thể hóa quyền này, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 quy định về quyền lập hội. Tuy còn rất sơ lược nhưng Sắc lệnh là sự khởi đầu cụ thể hóa về quyền lập hội và quyền hội họp của dân chúng. Quyền này được tiếp tục khẳng định tại các bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 cho thấy sự quan tâm của nhà nước ta đối với việc trao các quyền về dân chủ cho công dân, trong đó có quyền lập hội và quyền hội họp.

Sắc lệnh có hiệu lực cho tới thời điểm này, Chính phủ qua các thời kỳ đã ban hành một số nghị định để cụ thể hơn nữa quyền lập hội của công dân. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội, Nghị định số 33/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45, hiện là những văn bản đang có hiệu lực thi hành cùng với Sắc lệnh 102/SL/L004 là căn cứ để điều chỉnh về các quyền lập hội và quyền hội họp của công dân.

Tính đến cuối năm 2014, cả nước có 52.565 hội (483 hội hoạt động phạm vi cả nước), trong đó có 8.792 hội có tính chất đặc thù. Với quy mô và số lượng như trên, việc ban hành Luật là rất cần thiết để quản lý nhà nước được tốt hơn, đồng thời giúp các hội hoạt động thuận lợi hơn. Trong khi đó, hiện nay, Sắc lệnh số 102/SL/L004 đã không còn phù hợp với thực tế về tổ chức và hoạt động của hội, do đó đặt ra yêu cầu cần thiết phải xây dựng và trình Quốc hội ban hành luật về hội để thay thế sắc lệnh.

Tại tờ trình dự thảo Luật về Hội của Chính phủ trước Quốc hội ngày 12/11/2015 khẳng định: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm công dân, tổ chức Việt Nam có quyền lập hội. Nghiêm cấm cản trở, ép buộc, can thiệp vào việc thành lập tổ chức, hoạt động hội trái quy định của pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc, quyền con người, quyền công dân”. Do vậy, yêu cầu xây dựng dự thảo Luật phải tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền lập hội, phát huy tính tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm của các hội, hạn chế bao cấp, trông chờ ngân sách Nhà nước.

2. Mục tiêu của Dự thảo Luật về hội phải là mục tiêu kiến tạo nền tảng pháp lý phù hợp để thúc đẩy những hoạt động của các tổ chức xã hội. Những hạn chế đối với tự do lập hội chỉ được thực hiện nhằm bảo đảm sự ổn định, ngăn chặn những nguy cơ tiềm tàng của việc lạm dụng tự do lập hội. Dự thảo Luật cần hạn chế tối đa những quy định mang tính xiết chặt quản lý, tạo quyền hạn quá mức cho cơ quan Nhà nước để kiểm soát các tổ chức xã hội bất chấp yêu cầu về tính độc lập, tự chủ trong tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội.

Những nội dung chính của Dự thảo Luật về hội gồm 8 chương, 37 điều.

Chương 1, những quy định chung có 8 điều từ Điều 1 đến Điều 8 quy định về các vấn đề sau: phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng: Luật này quy định về quyền lập hội; tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội. Luật này không áp dụng đối với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức tôn giáo, cơ sở tín ngưỡng tại Việt Nam (Điều 1). Khái niệm hội: Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên; góp phần xây dựng và phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (Điều 2). Bảo đảm quyền lập hội và chính sách của Nhà nước (Điều 3, Điều 4).

Nhà nước tôn trọng và bảo đảm công dân, tổ chức Việt Nam có quyền lập hội, tham gia thành lập hội; quyền tham gia hoạt động của hội; quyền tham gia điều hành hoạt động của hội và quyền ra khỏi hội theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật khác có liên quan; ban hành cơ chế, chính sách để hội tham gia xã hội hóa các hoạt động cung cấp dịch vụ, tư vấn; thực hiện chương trình, dự án, đề tài và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật; cấp, khoán, hỗ trợ kinh phí hoạt động gắn với nhiệm vụ Nhà nước giao (nếu có).

Áp dụng pháp luật về hội: tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về hội được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật khác có liên quan (Điều 5). Điều 6 quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội: tự nguyện, tự quản; tự chủ kinh phí hoạt động; dân chủ, bình đẳng, minh bạch; không vì mục đích lợi nhuận; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ hội. Điều 7 quy định tên, trụ sở, phạm vi hoạt động, địa vị pháp lý; Điều 8 quy định của luật đối với các hành vi bị cấm.

Chương 2 các quy định về thành lập hội có 6 điều từ Điều 9 đến Điều 14 quy định về điều kiện thành lập hội; ban vận động thành lập hội; đăng ký thành lập hội; nội dung chủ yếu của điều lệ hội; đại hội thành lập hội; thẩm quyền cấp giấy đăng ký thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và người đại diện theo pháp luật của hội.

Chương 3 về hội viên, chương này gồm 4 điều từ Điều 15 đến Điều 18 quy định về các vấn đề sau: Hội viên của hội gồm hội viên chính thức, hội viên liên kết, hội viên danh dự. Quyền và nghĩa vụ của hội viên do điều lệ hội quy định. Chấm dứt tư cách hội viên, giải quyết quyền và nghĩa vụ đối với hội viên do điều lệ hội quy định.

Chương 4 về tổ chức, hoạt động của hội gồm 7 điều từ Điều 19 đến Điều 25 quy định các vấn đề sau: cơ cấu tổ chức của hội gồm đại hội; ban lãnh đạo; ban kiểm tra; đơn vị, tổ chức thuộc hội. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của hội là đại hội nhiệm kỳ hoặc đại hội bất thường. Nhiệm kỳ đại hội do điều lệ hội quy định nhưng không quá 5 (năm) năm kể từ ngày kết thúc đại hội nhiệm kỳ trước. Chính phủ quy định chi tiết việc báo cáo tổ chức đại hội, báo cáo kết quả đại hội và việc đổi tên, công nhận điều lệ sửa đổi, bổ sung của hội.

Chức năng của hội là tập hợp, đoàn kết hội viên nhằm chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên theo quy định của pháp luật và điều lệ hội. Phát huy vai trò, vị trí của hội nhằm tham gia, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Quyền hạn và nghĩa vụ của hội theo các quy định của pháp luật và tổ chức, hoạt động theo điều lệ hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Hội hoạt động thuộc lĩnh vực nào phải chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực đó. Báo cáo việc thay đổi các chức danh lãnh đạo hội, thay đổi trụ sở, thành lập pháp nhân thuộc hội với cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 14 Luật này và cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực chính mà hội hoạt động. Chấp hành sự hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc tuân thủ pháp luật và điều lệ hội. Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Chương 5 về hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, tạm đình chỉ, giải thể hội. Chương này gồm 3 điều, từ Điều 26 đến Điều 28 quy định về các vấn đề sau: hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hội; tạm đình chỉ hoạt động hội; giải thể hội.

Chương 6 về vấn đề tài sản, tài chính của hội gồm 2 điều từ Điều 29 đến Điều 30 quy định về tài sản, tài chính của hội; quản lý, sử dụng tài sản, tài chính của hội phải công khai, minh bạch theo điều lệ hội và quy định của pháp luật; được sử dụng để thực hiện tôn chỉ, mục đích, quyền và nghĩa vụ của hội, không được chia cho hội viên. Việc quản lý, sử dụng tài sản, tài chính do ngân sách nhà nước cấp, khoán, hỗ trợ để thực hiện nhiệm vụ được giao, thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước và pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.

Chương 7 quản lý nhà nước về hội gồm 5 điều từ Điều 31 đến Điều 35 về nội dung quản lý nhà nước về hội; trách nhiệm quản lý nhà nước về hội; khen thưởng, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo.

Chương 8 điều khoản thi hành gồm 2 điều quy định về hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành (Điều 36 và Điều 37)

3. Trong quá trình lấy ý kiến cho dự thảo Luật, đã có rất nhiều ý kiến góp ý cho rằng, việc xây dựng và ban hành Luật về hội là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho các hội hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích.

Những ý kiến đề cập đến bất cập trong dự thảo Luật về hội cũng rất xác đáng như: TS Hoàng Ngọc Giao – Viện trưởng Viện Chính sách, pháp luật và phát triển cho rằng luật chưa tạo điều kiện cho hoạt động của hội do nhân dân thành lập vì phải chờ cơ quan nhà nước “công nhận điều lệ thành lập hội và/hoặc người đại diện của hội”. Quyền lập hội của nhân dân bị hạn chế đáng kể với các quy định trong dự thảo áp đặt mô hình tổ chức và hoạt động hội theo kiểu “một doanh nghiệp cổ phần”, gây ra khó khăn, rườm rà và làm mất động lực thành lập hội của nhân dân.

Trong dự luật không có quy định tiêu chí thế nào là được chấp nhận, thế nào là không được chấp nhận đối với điều lệ hội và người đứng đầu. Điều đó xâm phạm đến quyền lập hội của người dân và dễ tạo cơ hội tùy tiện trong hành xử của công chức khi xét duyệt các hồ sơ xin thành lập hội. Trong dự thảo Luật còn có bất cập về quản lý sinh hoạt của hội, đó là cơ chế quản lý nhà nước đặt ra nhiều chủ thể, một là Bộ Nội vụ, đồng thời lại đặt thêm cơ chế theo kiểu bộ chủ quản. Nghĩa là, hội hoạt động trong lĩnh vực nào thì bộ chủ quản trong lĩnh vực đó cũng có thẩm quyền quản lý hội theo kiểu thanh tra, kiểm tra, giám sát. Điều này không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội nói chung cũng như của nền kinh tế thị trường. Việc đưa vào dự thảo Luật quyền thanh tra, kiểm tra như trên dẫn đến hệ quả là tạo nên sự phức tạp, rườm rà trong quản lý nhà nước.

Theo GS. Nguyễn Vi Khải, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng thẳng thắn gọi đây là một “cụ luật”, và quá trình soạn thảo là một “bản trường ca”, vì có quá nhiều ý kiến của các nhà khoa học, những đối tượng bị tác động không được tiếp thu. Luật về hội là một dự luật có số phận khá thăng trầm. Vốn có mục đích luật hóa Sắc lệnh số 102 năm 1957, cách đây đã 60 năm, dự thảo lần đầu tiên được đưa ra Quốc hội bàn năm 2006 nhưng chưa được thông qua. Từ đó đến nay, đã có đến 15-16 lần sửa, dự thảo luật về Hội vẫn còn quá nhiều vấn đề tranh cãi, “nâng lên đặt xuống đã khoảng 25 năm”. GS. Khải chỉ ra dự thảo luật về hội còn có sự quan tâm đặc biệt của dư luận với 10,3 triệu ý kiến so với trên dưới 1 triệu kết quả của nhiều luật khác; đồng thời kiến nghị đã đến lúc làm luật không phải chỉ để có luật nữa, mà phải đổi mới tư duy: Luật vị nhân sinh và phát triển.

Theo quan điểm của tác giả, dự thảo Luật cần chi tiết, cụ thể hơn giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về hội, tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hội.

Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh và quyền lập hội của công dân. Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Từ đó, khi ban hành luật về hội để cụ thể hóa quyền cơ bản này của công dân cần lấy giá trị cốt lõi của luật là việc tạo ra các điều kiện bằng quy định của pháp luật để công dân có thể thực hiện được quyền lập hội trong thực tế.

Với dự thảo luật về hội hiện nay có thể nhận thấy rằng, phạm vi điều chỉnh chủ yếu tập trung vào những vấn đề thuận lợi cho việc quản lý nhà nước về hội mà chưa thực sự là một đạo luật cởi mở cho công dân thực hiện quyền của mình. Do đó, nếu nhìn nhận về tư duy xây dựng luật thì dự thảo cần mở rộng hơn nữa, đặc biệt là các quy định về quyền lập hội của công dân. Cần tiếp cận dưới góc độ quyền lập hội của công dân như là một nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình quản lý nhà nước về hội.

Nếu phạm vi điều chỉnh mở rộng theo hướng này thì dự thảo cần thiết thêm một số điều để khẳng định và làm rõ hơn nữa nội dung về quyền lập hội của công dân, mở rộng khả năng điều chỉnh của luật về hội, chẳng hạn như cần thêm vào dự thảo khái niệm về hội (hiện nay khái niệm về hội chỉ là hội có các hội viên như các hội nghề nghiệp, hội của quần chúng, các câu lạc bộ…) mà chưa bao gồm và quy định về loại hội không có hội viên (thực tế đang tồn tại như quỹ xã hội, quỹ từ thiện, tổ chức tư vấn, tổ chức khoa học…)

Thứ hai, về các trường hợp bị hạn chế quyền lập hội và quyền tham gia hội. Trong các trường hợp được liệt kê trong dự thảo có trường hợp thứ hai, đó là công dân Việt Nam là cán bộ, công chức chưa được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức. Như vậy, quyền lập hội và tham gia hội của cán bộ, công chức bị hạn chế và phụ thuộc hoàn toàn vào sự cho phép của cơ quan nhà nước quản lý.

Quy định này đã xếp cán bộ, công chức vào một trong những đối tượng bị hạn chế quyền lập hội và tham gia hội cao nhất, tức là chỉ sau những người không có năng lực dân sự và những người liên quan đến việc chịu trách nhiệm hình sự. Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam nên cần phải có những tự do nhất định trong việc lập hội và tham gia hội. Nên chăng trong luật về hội cần “cởi trói” bằng cách cụ thể hơn về những loại hội nào cần xin phép, loại hội nào được tự do tham gia…

Thứ ba, về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của hội được quy định tại Điều 6 dự thảo, bao gồm: tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ hội; tự nguyện, tự quản; dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch; tự bảo đảm kinh phí hoạt động; không vì mục đích lợi nhuận. Trong hệ thống nguyên tắc trên cần bổ sung thêm nguyên tắc: đoàn kết, bảo vệ quyền, lợi ích của hội, hội viên, cộng đồng. Đây là một tư tưởng quan trọng để gắn kết các hội viên với nhau, các hội viên với hội và với cộng đồng.

Thực tế, nhiều hội đang hoạt động hợp pháp chưa thực hiện được nguyên tắc này nên các tôn chỉ mục đích của hội không được thực hiện đúng, xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo, không tôn trọng những công bố của hội… Bổ sung thêm nguyên tắc trên cũng phù hợp về phương diện lý luận, bởi tại Điều 2 của dự thảo định nghĩa về hội như sau: “Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam có tôn chỉ, mục đích phù hợp quy định của pháp luật, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; góp phần phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Nguyên tắc thứ 4 cần bổ sung thêm việc tự chủ về về tài chính bên cạnh việc tự bảo đảm về tài chính.

Thứ tư, về thẩm quyền cấp giấy đăng ký thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, tạm đình chỉ, giải thể, đổi tên, công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội. Nội dung của phần này chủ yếu phân cấp trong hệ thống hành chính nhà nước tương ứng với phạm vi hoạt động của hội. Để tuân thủ đúng quy định của Hiến pháp năm 2013 về các cấp hành chính và đơn vị hành chính thì cần chuẩn hóa lại trong dự thảo, đặc biệt cần bổ sung thêm thẩm quyền của đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt trong những lĩnh vực trên, hiện nay dự thảo chưa đề cập tới. Bổ sung tương tự với những quy định liên quan (như trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hội) đến cấp hành chính và đơn vị hành chính cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Nhìn chung, các quy định về việc đăng ký thành lập hội còn nặng về cơ chế xin – cho theo lối tư duy cũ, không có điểm thay đổi hoặc cải tiến so với Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội. Do vậy, để khuyến khích công dân thành lập và tham gia hội, luật về hội cần đưa ra các tiêu chí chung được phép thành lập hội (bao gồm hội có thành viên và hội không có thành viên); xác định mức độ can thiệp và cho phép của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp khác nhau để công dân khi thực hiện quyền lập hội và tham gia hội không bị “trói” bởi thủ tục hành chính; thủ tục đăng ký nên đơn giản hơn và thực hiện theo cơ chế hồ sơ “một cửa”…

Thứ năm, về điều kiện thành lập hội. Dự thảo quy định tại Điều 9 có 6 điều kiện thành lập hội: tên; tôn chỉ mục đích; lĩnh vực hoạt động chính không được trùng lặp với lĩnh vực chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi hoạt động; có điều lệ; có trụ sở; có đủ số người đăng ký tham gia. Trong 6 điều kiện trên thì điều kiện thứ 3 cần xem xét thận trọng. Bởi lẽ quy định như thế sẽ tạo thuận lợi cho nhà nước quản lý hội theo lĩnh vực và tôn chỉ, mục đích nhưng thực chất là quy định “đóng” đối với quyền tự do lập hội của công dân, thậm chí đi ngược lại với quyền này. Nó trái với với Điều 3 (bảo đảm quyền lập hội) nếu công dân muốn thành lập hội trong lĩnh vực đó với những phương thức hoạt động khác, tôn chỉ mục đích khác, thành viên mới… thì không có quyền thành lập hội mới. Nếu công dân không được thành lập hội mới vì lý do quy định ở điều kiện thứ 3 thì sẽ xảy ra tình trạng công dân chỉ có cách lựa chọn hội đã thành lập rồi hoặc không gia nhập hội đó. Như vậy, với điều kiện này sẽ hạn chế quyền tự do lập hội và tự do hội họp của công dân.

Thứ sáu, về các hành vi bị nghiêm cấm. Cần bổ sung thêm hành vi gây khó khăn cho việc thành lập, tổ chức và hoạt động của hội để quyền lập hội của công dân được thông thoáng hơn, đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm của nhà nước, của cán bộ, công chức trong việc bảo đảm quyền tự do lập hội của công dân; bổ sung thêm các hành vi cần nghiêm cấm là biến hội thành tổ chức lợi nhuận với động cơ trục lợi và hành vi không chấp hành các quy định và chính sách thuế…

Thứ bảy, về tài sản, tài chính của hội. Theo khoản 1 Điều 28 quy định tài sản của hội bao gồm: a) Trụ sở, trang thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động của hội; b) Tài sản của hội được hình thành từ nguồn kinh phí của hội, do các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài hiến, tặng, tài trợ theo quy định của pháp luật hoặc được nguồn ngân sách nhà nước trang bị, hỗ trợ gắn với nhiệm vụ được giao (nếu có). Không nên quy định loại tài sản ở điểm a) là tài sản của hội, vì những loại tài sản này có thể hội mượn, thuê của tổ chức và cá nhân khác. Chỉ cần quy định tài sản theo khoản b) đã bao hàm được đầy đủ tài sản của hội.

Thứ tám, về giải thích từ ngữ. Điều 3 dự thảo định nghĩa về hội như sau: Hội là tổ chức có tư cách pháp nhân được hình thành do sự tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam cùng chung mục đích nhằm phục vụ lợi ích chung của hội và hội viên; góp phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực hội hoạt động.

Về kỹ thuật định nghĩa không nên dùng ngay từ cần định nghĩa để định nghĩa về nó. Chỉ nên quy định: Hội là tổ chức có tư cách pháp nhân được hình thành do sự tự nguyện của công dân, pháp nhân Việt Nam cùng chung mục đích, nhằm phục vụ lợi ích chung của tổ chức và các thành viên; góp phần thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực tổ chức đó hoạt động.

Thứ chín, về một số nội dung liên quan đến cơ chế bảo vệ quyền lập hội và tham gia hội. Nhận xét tổng quan về cơ chế bảo vệ quyền lập hội:

Một là, trong dự thảo quy định khá chung chung về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo cách làm luật khá cũ; trong đó giao cho Chính phủ hoặc Bộ Nội vụ quy định chi tiết về những nội dung trên. Như vậy, luật về hội là luật về nội dung có thể có hướng mở cho quyền tự do lập hội, nhưng với việc giao thẩm quyền cho Chính phủ, Bộ Nội vụ quy định chi tiết thì có thể dẫn đến tình trạng dùng thủ tục để hạn chế quyền, thậm chí loại bỏ quyền tự do lập hội, quyền chủ động trong hoạt động hội.

Hai là, có thể dễ dàng nhận thấy, dự thảo đưa ra các quy định nặng về việc thuận lợi cho nhà nước trong việc quản lý hội, chứ chưa thực sự là một luật cụ thể hóa việc trao quyền lập hội cho công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Do đó, cần thiết phải: xác lập được những quy định cụ thể hơn nữa trong luật về hội; loại bớt những quy định hạn chế quyền như đã trình bày; giảm bớt sự can thiệp của nhà nước vào trong hoạt động của hội.

Như vậy, nhìn tổng thể về việc thiết kế dự luật về hội nên bao hàm ba cách tiếp cận mà Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đặt ra, đó là: quyền thành lập hội; quyền gia nhập hội; quyền hoạt động và điều hành hội và cuối cùng là quản lý nhà nước về hội với những cho phép hoặc hạn chế nhất định mà nhà nước thấy cần thiết.

Tài liệu tham khảo:
1. Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992, 2013.
2. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948.
3. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966.
4. Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957 quy định về quyền lập hội.
5. Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội.
6. Dự thảo Luật về Hội trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp thứ 42.
7. Duthaoonline.quochoi.vn

TS. Nguyễn Thị Minh Hà
Đại học Quốc gia Hà Nội